Điều trị suy tim theo từng giai đoạn của bệnh

Điều trị suy tim được chia thành 4 cấp độ theo từng giai đoạn A, B, C và D. Có 2 lựa chọn điều trị chính: điều trị bằng thuốc và không dùng thuốc. Mục tiêu của điều trị suy tim là giảm các triệu chứng, hạn chế nhập viện và kéo dài thời gian sống sót.

1. Điều trị suy tim giai đoạn A

Ở giai đoạn A ban đầu, bệnh nhân chỉ có nguy cơ cao bị suy tim, nhưng không có bệnh tim cấu trúc hoặc các triệu chứng suy tim điển hình. Do đó, điều quan trọng trước tiên là phải điều chỉnh một lối sống không lành mạnh hoặc điều trị các tình trạng có nguy cơ cao bị suy tim, chẳng hạn như:

Tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và tiểu đường: Cần điều trị theo phác đồ và mục tiêu.

Nhịp tim nhanh: Kiểm soát nhịp thất hoặc phục hồi nhịp xoang.

Suy giáp hoặc cường giáp: Điều trị bệnh tuyến giáp theo khuyến cáo.

Người hút thuốc, người uống rượu hoặc người nghiện ma túy: Khuyên bệnh nhân tránh các chất làm tăng suy tim.

Ngoài ra, bác sĩ cũng có thể kê toa điều trị thích hợp tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, ví dụ:

Đo phân suất tống máu ef bằng siêu âm tim ở những bệnh nhân có tiền sử bệnh tim cá nhân hoặc gia đình.

Thuốc ức chế men chuyển ở những bệnh nhân có tiền sử xơ vữa động mạch, tiểu đường, tăng huyết áp hoặc các yếu tố tim mạch khác.

Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II (có hiệu quả tương tự như Thuốc ức chế men chuyển).

Thuốc chẹn beta nếu không chống chỉ định.

2. Điều trị suy tim giai đoạn B

Khi bệnh nhân đã có bệnh tim cấu trúc nhưng chưa có dấu hiệu suy tim, họ được phân loại là giai đoạn B. Các biện pháp điều trị bao gồm:

Tương tự như vậy tất cả các chỉ định áp dụng trong giai đoạn A.

thuốc chẹn β hoặc thuốc ức chế men chuyển: Bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim.

thuốc chẹn β và thuốc ức chế men chuyển: Bệnh nhân có phân suất tống máu EF giảm.

Thuốc ức chế men chuyển: Bệnh nhân tăng huyết áp với phì đại thất trái.

Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II: Ở những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, EF giảm và không được dung nạp bởi thuốc ức chế men chuyển.

Tái tưới máu động mạch vành.

Sửa chữa van hoặc phẫu thuật thay van.

Cấy máy tạo nhịp tim khử rung tim (ICD).

Mặt khác, việc sử dụng ivabradine một mình là hợp lý khi bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chẹn β có nhịp tim > 70 nhịp / phút. Một số nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đã chỉ ra rằng việc sử dụng digoxin và thuốc chẹn kênh canxi không có tác dụng điều trị, đôi khi thậm chí gây hại ở một số bệnh nhân.

3. Điều trị suy tim giai đoạn C

Giai đoạn C, còn được gọi là độ 3, được định nghĩa khi bệnh nhân bị bệnh tim cấu trúc, với tiền sử hoặc các triệu chứng hiện tại của suy tim. Điều trị suy tim độ 3 nên được áp dụng đúng theo chỉ định và phối hợp cẩn thận, nếu không nó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng suy tim hoặc bệnh nhân sẽ bỏ điều trị vì tác dụng phụ.

Điều trị suy tim độ 3 (Giai đoạn C) cụ thể:

Tất cả các chỉ định của giai đoạn A và B.

Sử dụng thuốc: Thuốc lợi tiểu (hạn chế muối), thuốc chẹn β / thuốc ức chế men chuyển / nút xoang trực tiếp, Ivabradine, thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II, Digitalis, kết hợp Hydralazine với Nitrat, Omega 3 và Chất đối kháng Aldosterone (Spironolactone, Eplerenone ).

Liệu pháp thiết bị bao gồm: Cấy máy tạo nhịp tim khử rung tim (ICD), đồng bộ hóa cơ tim hoặc tạo nhịp hai thất (CRT) và sử dụng thiết bị hỗ trợ tâm thất.

Tập thể dục theo một chương trình được thiết kế dành riêng cho bệnh nhân suy tim.

Trong điều trị suy tim độ 3, không nên làm như sau:

Không nên kết hợp thường xuyên thuốc ức chế men chuyển và/hoặc thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II với thuốc đối kháng aldosterone.

Nên tránh dùng thuốc chống loạn nhịp tim, thuốc chống viêm không steroid hoặc thuốc ức chế COX-2.

Không nên sử dụng thuốc chẹn kênh canxi thường xuyên.

Thuốc vận mạch lâu dài hoặc liệu pháp hormone có thể gây hại, ngoại trừ trong một số trường hợp nhất định là bắt buộc.

4. Điều trị giai đoạn suy tim

Khi suy tim đã đến giai đoạn cuối, có nguy cơ kháng thuốc điều trị, vì vậy cần có sự can thiệp đặc biệt. Định lượng và quản lý cẩn thận tình trạng giữ nước là điều cơ bản và quan trọng trong điều trị suy tim giai đoạn cuối. Các biện pháp cụ thể:

Truyền tĩnh mạch liên tục các thuốc giãn mạch ngoại vi;

Truyền tĩnh mạch thuốc co mạch;

Sử dụng thuốc lợi tiểu nhưng cần chú ý đến liều lượng, nếu quá mạnh bệnh nhân có thể bị mất nước, làm cho tình trạng tồi tệ hơn;

Chỉ định ghép tim (ở một số quốc gia).

Các bác sĩ sẽ xem xét việc chỉ định ghép tim cho những bệnh nhân bị suy tim giai đoạn cuối có các triệu chứng nghiêm trọng, tiên lượng xấu và không có liệu pháp thay thế nào khác. Ngoài ra, người nhận ghép tim phải năng động, giao tiếp tốt và có cảm xúc ổn định. Ghép tim sau ghép cần được điều trị tích cực, do đó, cần xem xét sự tuân thủ của bệnh nhân và gia đình.

Cấy ghép tim chống chỉ định trong các trường hợp sau:

Nhiễm trùng tiến triển;

Nghiện rượu hoặc dùng ma túy;

Đã điều trị ung thư trong vòng 5 năm;

Bệnh nhân mắc các bệnh đi kèm nghiêm trọng khác có tiên lượng xấu;

Thay đổi tâm trạng, bệnh tâm thần không được điều trị;

Tình trạng tim và mạch máu không ổn định;

Xem thêm: Tìm hiểu phương pháp đột phá điều trị suy tim giai đoạn cuối: Cấy thiết bị hỗ trợ tâm thất trái HVAD

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *