Ung thư biểu mô tuyến giáp thể nang hãy cùng thongtinbenh tìm hiểu và giải đáp thắc mắc này trong bài viết của chúng tôi nhé
Tổng quan về ung thư biểu mô tuyến giáp thể nang
Tuyến giáp, nằm giữa cổ dưới sụn nhẫn, bao gồm thuỳ trái và thuỳ phải, được phân chia bởi eo giáp, là một tuyến nội tiết quan trọng. Chức năng của tuyến giáp là sản xuất hormon giáp, giúp cơ thể thực hiện các quá trình chuyển hóa. Tuyến giáp được hình thành từ nhiều nang giáp, là đơn vị cấu trúc và chức năng cơ bản của tuyến.
Các tế bào biểu mô lót bên trong các nang có thể có hình khối hoặc trụ, phụ thuộc vào tình trạng hoạt động của nang. Các tế bào này có thể phát triển bất thường, góp phần tạo nên các bệnh ác tính tại tuyến giáp.
Ung thư tuyến giáp là một trong những loại ung thư nội tiết thường gặp nhất và được chia thành hai loại chính là ung thư biệt hoá tốt và ung thư kém biệt hoá. Loại ung thư biệt hoá tốt bao gồm ung thư tuyến giáp thể nhú và thể nang, trong khi loại ung thư kém biệt hoá bao gồm ung thư tuyến giáp dạng tủy và dạng không biệt hoá. Trong số này, ung thư tuyến giáp dạng nhú là loại phổ biến nhất. Ung thư tuyến giáp thường đứng ở vị trí thứ hai, chiếm khoảng 10-15% tổng số các trường hợp ung thư tuyến giáp.
Nguyên nhân ung thư tuyến giáp thể nang
Tuyến giáp là cực kỳ nhạy cảm với bức xạ ion hóa. Sự tiếp xúc với bức xạ ion hóa có thể tăng nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp lên đến 30%. Việc phơi nhiễm vùng đầu cổ với tia X, đặc biệt là trong thời niên thiếu, đã được xác nhận là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của ung thư tuyến giáp. Khoảng 7% trong số những người bị ảnh hưởng bởi vụ đánh bom nguyên tử tại Nhật Bản đã phải đối mặt với bệnh ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, tiếp xúc với phóng xạ từ thảm họa hạt nhân Chernobyl thường liên quan đến sự gia tăng của ung thư tuyến giáp dạng nhú hơn là dạng nang.
Trong giai đoạn từ những năm 1920 đến những năm 1960, tia xạ tăng đã được sử dụng để điều trị khối u và một số bệnh lành tính như mụn, lao ở cổ, ho mạn, và tuyến ức phì đại. Khoảng 10% những người này sau 30 năm ghi nhận mắc ung thư tuyến giáp. Bệnh nhân được xạ trị do ung thư vùng đầu cổ cũng có nguy cơ tăng về ung thư tuyến giáp. Phơi nhiễm với tia X trong quá trình chụp hình ảnh chẩn đoán không làm tăng nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp.
Mặc dù ung thư dạng nang thường xuất hiện tại những vùng thường gặp phình giáp, mối quan hệ giữa tăng cường hormon kích thích tuyến giáp (TSH) kéo dài và ung thư tuyến giáp dạng nang vẫn chưa rõ ràng. Có báo cáo chỉ ra mối quan hệ giữa thiếu hụt muối iodine và tần suất mắc ung thư giáp, cũng như việc giảm tỷ lệ ung thư tuyến giáp dạng nang ở những vùng mắc bệnh phình giáp sau khi được bổ sung iodine.
Ung thư tuyến giáp dạng nang thường phát hiện ở độ tuổi từ 40 đến 60, và nó thường gặp nhiều hơn ở phụ nữ so với nam.
Triệu chứng ung thư biểu mô tuyến giáp thể nang
Nhiều trường hợp ung thư tuyến giáp dạng nang không tạo ra các triệu chứng rõ ràng trong thực tế lâm sàng. Nguyên nhân phổ biến nhất là bệnh nhân không thấy đau hoặc có bất kỳ dấu hiệu đặc trưng nào, chỉ có thể phát hiện ra một khối u ở cổ khi tự kiểm tra hoặc thông qua các phương pháp hình ảnh y tế. Đau thường không phải là một triệu chứng phổ biến của ung thư tuyến giáp ở giai đoạn đầu. Một số bệnh nhân có thể trải qua các triệu chứng suy giáp hoặc cường giáp, nhưng đối với nhiều người, không có triệu chứng rõ ràng.
Một số ít bệnh nhân có thể trải qua các triệu chứng như ho dai dẳng, khó thở, hoặc khó nuốt. Tuy nhiên, những triệu chứng này không phổ biến và không thường xuyên xuất hiện. Các triệu chứng nghiêm trọng như đau, liệt dây thanh, ho ra máu, hoặc tăng kích thước nhanh chóng của khối u là hiếm khi xảy ra ở giai đoạn đầu của ung thư tuyến giáp.
Khi được chẩn đoán, khoảng 10-15% bệnh nhân có thể phát hiện bệnh nhờ các triệu chứng ở phổi hoặc xương, ví dụ như gãy xương tự phát, do bệnh đã lan đến phổi và xương.
Tiên lượng sống của bệnh
Tính đến nay, tỉ lệ tử vong do ung thư tuyến giáp vẫn duy trì ổn định mặc dù tần suất mắc mới đang tăng. Điều này làm cho ung thư tuyến giáp trở thành một trong những loại ung thư có tỷ lệ tử vong thấp nhất. Dữ liệu thống kê tại Hoa Kỳ năm 2017 cho thấy ước tính khoảng 2,010 trường hợp tử vong do ung thư tuyến giáp, so với hơn 150,000 trường hợp tử vong do ung thư phổi. Tuy nhiên, tiên lượng của ung thư tuyến giáp dạng nang thường khá kém so với dạng nhú, do có khả năng di căn xa cao và thường được phát hiện ở giai đoạn tiên triển hơn.
Khi ung thư tuyến giáp dạng nang đã di căn xa, tần suất di căn đến các hạch vẫn là hiếm, ước tính dưới 10%. Ngược lại, một số nghiên cứu không ghi nhận sự khác biệt về tiên lượng giữa ung thư tuyến giáp dạng nang và dạng nhú khi điều chỉnh các yếu tố như tuổi và giới tính.
Tỉ lệ sống sót sau 10 năm từ thời điểm chẩn đoán của ung thư tuyến giáp dạng nang phụ thuộc vào mức độ xâm lấn. Cho những trường hợp ung thư vi xâm lấn, tỉ lệ sống sót sau 10 năm được báo cáo là 98%, trong khi cho những trường hợp ung thư dạng nang xâm lấn, tỉ lệ này giảm xuống 80%. Tỉ lệ tử vong do ung thư tuyến giáp dạng nang dao động từ 5% đến 15%, và những ca bệnh đã xâm lấn vỏ bao thường có tiên lượng xấu hơn so với những ca chưa xâm lấn.
Điều trị ung thư tuyến giáp thể nang
Phân loại và Giai đoạn:
– Hệ thống TNM được sử dụng để phân loại ung thư tuyến giáp, bao gồm cả ung thư tuyến giáp dạng nang.
– Yếu tố T (kích thước khối u):
– Tx: Không thể đánh giá được kích thước.
– T0: Không thể sờ thấy khối u.
– T1: Kích thước dưới 1 cm.
– T2: Kích thước từ 1 đến 4 cm.
– T3: Kích thước lớn hơn 4 cm.
– T4: Kích thước bất kỳ, đã xâm lấn ngoài tuyến giáp.
– Yếu tố N (tình trạng hạch bạch huyết):
– Nx: Không đánh giá được hạch bạch huyết vùng.
– N1: Có hạch cổ cùng bên u.
– N2: Có hạch cổ đối bên hoặc cả hai bên và N3 khi hạch cổ dính.
– Yếu tố M (tình trạng di căn):
– M0: Không có di căn xa.
– M1: Có di căn xa.
– Giai đoạn từ I đến IV dựa trên các yếu tố T, N, và M.
Phác đồ Điều trị:
– Cắt thuỳ và eo tuyến giáp:
– Cho ung thư tuyến giáp dạng nang vi xâm lấn nhẹ.
– Cắt giáp toàn phần:
– Cho ung thư tuyến giáp dạng nang xâm lấn.
– Khuyến cáo sau mổ điều trị bằng Iot phóng xạ.
– Iot phóng xạ:
– Được chỉ định sau cắt giáp để phát hiện và diệt mô giáp còn lại.
– Khuyến cáo cho những bệnh nhân có nhiều tiêu chuẩn như bệnh đa ổ, kích thước u ≥ 4 cm, xâm lấn ngoài tuyến giáp, di căn hạch, di căn xa.
– Xạ trị ngoài:
– Cho các trường hợp không thể cắt được hoặc bệnh còn lại sau mổ.
– Lên kế hoạch xạ trị cẩn thận để giảm biến chứng.
– Hóa trị:
– Phác đồ 2 thuốc Cisplatin và Doxorubicin được sử dụng có hiệu quả hạn chế.
– Nên cân nhắc ở những bệnh nhân tái phát hoặc tiến triển bệnh.
– Quản lý đau và giảm nhẹ thuyên tắc mạch máu:
– Do ung thư tuyến giáp dạng nang có nhiều mạch máu.
Lưu ý:
– Phương pháp mổ có thể là mổ mở hoặc các kỹ thuật mổ xâm lấn tối thiểu.
– Đối với bệnh nhân di căn xa, xạ trị, hoá trị, hoặc cả hai có thể được áp dụng sau mổ cắt toàn bộ tuyến giáp.
Theo dõi và Đánh giá:
– Sau mọi phương pháp điều trị, người bệnh cần được theo dõi thường xuyên để phát hiện kịp thời bất kỳ tái phát nào của ung thư tuyến giáp dạng nang.