Hội chứng tĩnh mạch chủ trên do ung thư là kết quả của sự tắc nghẽn lưu lượng máu qua tĩnh mạch chủ trên. Tắc nghẽn tĩnh mạch có thể do khối u xâm lấn hoặc chèn ép từ ngoài tĩnh mạch ở các cơ quan lân cận như hạch bạch huyết, khối u trung thất, phổi phải hoặc do huyết khối tĩnh mạch,…
1. Chèn ép tĩnh mạch chủ trên do ung thư
Tĩnh mạch chủ trên là một trong những tĩnh mạch chính trong cơ thể con người, mang máu từ đầu, cổ, ngực và cánh tay đến tim. Chèn ép tĩnh mạch chủ trên xảy ra khi tĩnh mạch bị chặn hoặc nén một phần, trong đó ung thư là nguyên nhân chính.
Hội chứng tĩnh mạch chủ trên ung thư là kết quả của sự tắc nghẽn lưu lượng máu qua tĩnh mạch chủ trên. Nguyên nhân tắc nghẽn có thể do khối u xâm lấn hoặc chèn ép từ bên ngoài tĩnh mạch ở các cơ quan lân cận như hạch bạch huyết, phổi phải, khối u trung thất hoặc huyết khối tĩnh mạch…
2. Triệu chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên do ung thư
Hội chứng tĩnh mạch chủ trên là một tập hợp các triệu chứng với sự khởi phát dần dần. Tuy nhiên, đây là một trường hợp khẩn cấp có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về hô hấp như:
2.1 Triệu chứng cơ năng
Các triệu chứng thực thể bao gồm:
Khó thở là triệu chứng thường gặp nhất của chèn ép tĩnh mạch chủ. Bệnh nhân có triệu chứng khó thở liên tục hoặc ngắt quãng.
Đau ngực: Đặc trưng của đau ngực có thể là đau cục bộ do chèn ép khối u hoặc đau lan tỏa.
Ho, khó nuốt: đôi khi ho ra máu
Căng thẳng trong đầu: các triệu chứng sẽ tăng lên khi ho, nằm xuống hoặc cúi xuống.
2.2 Triệu chứng thực thể
Sưng mặt và cổ.
Áo sưng, cánh tay sưng.
Tài sản thế chấp lưu thông ở cổ và ngực
Các biểu hiện phù não như đau đầu, lú lẫn, co giật, hôn mê… chỉ xảy ra ở một số bệnh nhân.
Giãn tĩnh mạch cổ, ngực,…
3. Phương pháp chẩn đoán
3.1 Chẩn đoán cận lâm sàng
Các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng cho hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên bao gồm:
Các xét nghiệm định kỳ: công thức máu, điện giải, đông máu ban đầu, HbsAg, chức năng gan thận, xét nghiệm HIV…
X-quang tim phổi: có thể xác định sơ bộ nguyên nhân.
Chụp cắt lớp vi tính ngực PET/CT toàn thân: kết quả cho thấy khối u hoặc di căn hạch bạch huyết gây tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên, mức độ và di căn của khối u tùy thuộc vào nguyên nhân tắc nghẽn.
Siêu âm Doppler của chi trên: cho phép chẩn đoán tắc nghẽn tĩnh mạch và mức độ hình thành huyết khối có liên quan.
Chụp động mạch với tiêm chất cản quang tiêm tĩnh mạch của cả hai chi trên: giúp phát hiện vị trí tắc nghẽn.
Kiểm tra mô bệnh học: để biết nguyên nhân gây tắc nghẽn tĩnh mạch là lành tính hay ác tính, để có thể điều trị hiệu quả.
Phương pháp sinh thiết khối u: tế bào đờm, tế bào dịch màng phổi, sinh thiết hạch ngoại biên, sinh thiết tủy xương, nội soi trung thất, nội soi phế quản, cắt ngực hoặc hướng dẫn sinh thiết khối u xuyên lồng ngực dưới từ chụp cắt lớp vi tính,…
3.2 Chẩn đoán nguyên nhân
Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên do ung thư có thể xảy ra ở nhiều loại ung thư khác nhau, một số bệnh thường gặp là:
Ung thư phổi
Khối u trung thất
Ung thư thực quản xâm lấn khí quản và trung thất
Ung thư thanh quản và hạ họng
U lympho không Hodgkin
Ung thư vú
Hạch bạch huyết ung thư.
4. Phương pháp điều trị
Điều trị chèn ép tĩnh mạch chủ trên do ung thư tuân theo nguyên tắc giảm triệu chứng và điều trị nguyên nhân gây bệnh. Ngoài ra, việc điều trị nguyên nhân còn phụ thuộc vào loại ung thư, mô bệnh học, lây lan, ung thư di căn và các yếu tố tiên lượng. Một số phương pháp điều trị hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên do ung thư:
Nếu bị suy hô hấp, cho bệnh nhân thở oxy bằng kính với tốc độ 3-4 lít/phút. Nếu bệnh nhân bị suy hô hấp nặng, cần nhanh chóng đặt nội khí quản để thở máy nhân tạo.
Bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp như thở khò khè, tổn thương đường hô hấp, chèn ép hệ thần kinh trung ương: cần đặt stent tĩnh mạch, sau đó xạ trị với liều thích hợp tùy theo nguyên nhân chèn ép. .
Bệnh nhân được xạ trị cấp cứu do khối u chèn ép đường thở: giảm viêm và phù nề bằng cách tiêm corticoid liều cao trong thời gian ngắn như: methylprednisolone 40mg (1-1,5mg/kg), tiêm tĩnh mạch từ 2-3 ống/ngày.
Các bệnh ung thư nhạy cảm với hóa chất: khối u tế bào mầm, ung thư vú, ung thư phổi tế bào nhỏ, u lympho không Hodgkin cần được điều trị ngay theo phác đồ của từng bệnh cụ thể và có thể đặt stent mạch máu. máu trước khi hóa trị.
Ung thư phổi không tế bào nhỏ: bệnh nhân cần đặt stent trước khi xạ trị đơn thuần hoặc kết hợp với hóa trị, xạ trị, liệu pháp miễn dịch hoặc liệu pháp nhắm mục tiêu.
Bệnh nhân chèn ép tĩnh mạch chủ trên và bệnh tiến triển hoặc tái phát: nên đặt stent trước, sau đó mới điều trị nguyên nhân gây ung thư bằng xạ trị, hóa trị…
Bệnh nhân đã đặt stent mạch máu cần dùng thuốc chống đông lâu dài như warfarin, uống 1/2-1/4 viên/ngày.
Xạ trị cấp cứu: trong trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu chèn ép đường thở, xạ trị cấp cứu được thực hiện với các liều sau: 4Gy x 5 buổi, 3Gy x 10 buổi, 2Gy x 20 buổi.
Ngoài ra, cần kết hợp điều trị toàn thân tùy theo nguyên nhân cụ thể.
Tóm lại, hội chứng tĩnh mạch chủ trên ung thư là kết quả của sự tắc nghẽn dòng chảy của máu qua tĩnh mạch chủ trên. Nguyên nhân của tắc nghẽn có thể là do khối u xâm lấn hoặc chèn ép từ bên ngoài tĩnh mạch ở các cơ quan lân cận như hạch bạch huyết, phổi phải, khối u trung thất hoặc huyết khối tĩnh mạch,… Tuy nhiên, đây là một trường hợp khẩn cấp y tế có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về hô hấp. Do đó, bệnh nhân ung thư có triệu chứng bất thường cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời.
Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn https://thongtinbenh.vn