Ung thư biểu mô vảy sừng hoá

Ung thư biểu mô vảy sừng hoá

Ung thư biểu mô vảy sừng hoá hãy cùng thongtinbenh tìm hiểu và giải đáp thắc mắc này trong bài viết của chúng tôi nhé

Ung thư biểu mô tế bào vảy là một loại ung thư thường gặp ở da, đứng thứ hai trong số các loại ung thư da phổ biến. Nguyên nhân xuất phát của nó là từ các tế bào sừng trong lớp thượng bì của da. Loại tế bào này có chức năng chính là sản xuất Keratin, một loại protein sừng quan trọng trong cấu trúc của da, tóc và móng tay. Ung thư biểu mô tế bào vảy thường có nguồn gốc từ các tế bào nằm trong lớp biểu bì, tạo ra Keratin để duy trì sự đàn hồi và bảo vệ cho các thành phần của da.

Đối tượng mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy

– Bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy thường phổ biến ở nam giới cao tuổi, nhưng cũng có thể xuất hiện ở phụ nữ và những người ở độ tuổi trưởng thành.
– Nguy cơ mắc bệnh tăng lên nếu có tiền sử về các loại ung thư da khác như ung thư biểu mô vay, ung thư biểu mô đáy, hoặc Melanoma.
– Những người có da bị tổn thương bởi tác động của ánh sáng mặt trời, đặc biệt là tổn thương dày sừng, có nguy cơ cao hơn.
– Nghề nghiệp hoặc các hoạt động đòi hỏi thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời tăng khả năng mắc bệnh.
– Hút thuốc có thể là một yếu tố nguy cơ.
– Những đặc điểm như da trắng, mắt xanh và tóc vàng hoặc đỏ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
– Tiền sử về chấn thương da, bỏng nhiệt, hoặc các bệnh như Lupus da, Epidermolysis Bullosa, loét chân có thể liên quan đến nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy.
– Hội chứng di truyền, như khô da sắc tố và bạch tạng, cũng có thể là yếu tố nguy cơ.
– Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm tiếp xúc với bức xạ ion hóa, asen, và sự suy giảm miễn dịch do bệnh hoặc sử dụng các loại thuốc ức chế miễn dịch. Người nhận cấy ghép nội tạng cũng có nguy cơ tăng lên về việc phát triển ung thư biểu mô tế bào vảy.

Nguyên nhân bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy

Hơn 90% trường hợp ung thư biểu mô tế bào vảy được liên kết với các đột biến trong DNA. Đối với gen ức chế khối u p53, các đột biến thường xuyên xuất hiện do tác động của tia cực tím (UV), đặc biệt là UVB. Ngoài ra, các đột biến đặc trưng khác có thể xuất phát từ hút thuốc lá, quá trình lão hóa và ức chế miễn dịch (ví dụ, khi sử dụng các loại thuốc như Azathioprine). Các đột biến trong các đường truyền tín hiệu, bao gồm thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì, tín hiệu Ras, Fyn và P16ink4a, cũng có thể đóng vai trò trong quá trình này.
Virus gây u nhú ở người (HPV) được xem xét có vai trò trong việc gây ra ung thư biểu mô tế bào vảy, đặc biệt là trong các trường hợp xuất phát ở những người có hệ thống miễn dịch suy giảm. Các phân nhóm β-HPV và các loại cụ thể như HPV 5, 8, 17, 20, 24 và 38 đã được liên kết với tăng nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào vảy ở những người có hệ thống miễn dịch yếu.
Ung thư biểu mô vảy sừng hoá
Ung thư biểu mô vảy sừng hoá

Biểu hiện lâm sàng bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy

Tổn thương của ung thư biểu mô tế bào vảy phát triển qua nhiều tuần đến vài tháng và có những đặc điểm sau:
– Có khả năng loét.
– Thường gặp sưng và đau.
– Vị trí thường xuất hiện ở các khu vực tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng, đặc biệt là mặt, môi, tai, tay, cẳng tay và cẳng chân.
– Kích thước có thể thay đổi từ vài mm đến vài cm.
– Khối u có thể di căn đến các hạch lân cận và cơ quan khác.
Ngoài ra, có một số đặc điểm đặc biệt của ung thư biểu mô tế bào vảy:
– Ung thư tế bào vảy quanh miệng thường xuất hiện ở môi dưới với biểu hiện sẩn, trợt đỏ cứng, đặc biệt là trên một số tổn thương trước đó như viêm môi ánh sáng, bạch sản ở người hút thuốc lá, thuốc lào, hoặc người ăn trầu.
– Ung thư tế bào vảy quanh móng có thể dễ nhầm lẫn với bệnh hạt cơm, đòi hỏi sự chẩn đoán xác định thông qua mô bệnh học.
– Ung thư quá sản sừng (Keratoacanthoma) thường xuất hiện nhanh chóng trong vài tuần, có hình dạng màu đỏ, nổi cao, bóng, và có tổ chức sừng giống miệng núi lửa, có thể tự khỏi sau vài tháng.
– Ung thư tế bào vảy tại chỗ (In Situ) tiến triển chậm và kéo dài nhiều năm.
– Bệnh Bowen (Bowen’s Disease) được xem xét là ung thư tế bào vảy khu trú ở da, có mảng da màu hồng hoặc đỏ, có vảy và giới hạn rõ với da lành, thường xuất hiện ở vùng da tiếp xúc với ánh nắng.
– Hồng sản Queyrat (Eythroplasia of Queyrat) thường xuất hiện ở niêm mạc sinh dục nam, có mảng đỏ giới hạn rõ, bề mặt ướt, không ngứa, không đau, và tiến triển chậm.

Cận lâm sàng bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy

Xét nghiệm mô bệnh học thường quy (HE) là tiêu chuẩn quan trọng để chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào vảy. Trong kết quả xét nghiệm này, thường phát hiện các đặc điểm sau:
– Các tế bào sừng ác tính, thể hiện sự biến đổi độc hại của chúng.
– Tăng số lượng nhân chia tế bào, một đặc điểm của sự tăng tốc độ phân chia.
– Nhân quái, là dạng nhân tế bào bất thường và không đều.
– Mất phân cực, một biểu hiện của sự mất tổ chức bình thường của tế bào.
– Khả năng xâm nhập sâu xuống lớp bì, là dấu hiệu của sự lan rộng của tế bào ung thư.
– Dầy sừng và á sừng, chỉ ra sự phát triển của các tế bào sừng trong ung thư.
– Mức độ biệt hóa khác nhau, thể hiện sự đa dạng về tính chất của các tế bào.
– Có thể xâm nhập thần kinh, là một biểu hiện của sự lây lan của tế bào ung thư đến các khu vực khác trong cơ thể.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *