Nhiễm HIV vẫn là một vấn đề sức khỏe toàn cầu, gây ra gánh nặng bệnh tật nặng nề và gây ra hội chứng suy giảm mắc phải (AIDS). Virus tấn công các tế bào miễn dịch TCD4, làm suy yếu hệ thống miễn dịch, khiến cơ thể dễ bị nhiễm trùng cơ hội như bệnh lao, nhiễm virus, ký sinh trùng,… Sự ra đời của thuốc kháng virus (ARV) đã ức chế sự nhân lên của HIV trong cơ thể, từ đó khôi phục hệ thống miễn dịch, từ đó tạo ra một bước tiến lớn trong điều trị HIV. Hiện nay, chưa có vắc-xin phòng ngừa lây nhiễm HIV, vì vậy các biện pháp phòng ngừa chính vẫn là phòng ngừa đường lây truyền và dự phòng ARV.
Những người nhiễm HIV dễ bị nhiễm trùng và ký sinh trùng hiếm thấy ở những người có hệ thống miễn dịch bình thường.
Nguyên nhân gây bệnh
Virus HIV
Thuộc họ Retroviridae, vật liệu di truyền là RNA, có hai loại virus là HIV-1 và HIV-2. Virus là một khối hình cầu, đường kính khoảng 80-100 nm, cấu trúc bao gồm 3 lớp chính: vỏ ngoài, vỏ bên trong, nhân virus chứa 2 sợi RNA và enzyme cần thiết cho quá trình tổng hợp virus như transcriptase ngược, enzyme liên kết, enzyme protease, v.v.
Virus lưu thông trong máu, gặp các tế bào có thụ thể bề mặt CD4 (tế bào CD4), phiên mã ngược xảy ra, tạo ra các hạt virus mới, thoát ra và tiếp tục lây nhiễm sang các tế bào khác. Số lượng tế bào CD4 của cơ thể giảm dần, hệ miễn dịch suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
Nguyên nhân vi sinh vật gây nhiễm trùng và ký sinh trùng
+ Mycobarterium: Ở bệnh nhân HIV, lao là bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong. Bệnh lao bacillus tên khoa học là Mycobacterium tuberculosis, đặc tính chống rượu và kháng axit. Nhiễm trùng phổ biến nhất là bệnh lao phổi và con đường lây truyền phổ biến nhất là đường hô hấp. Bệnh nhân có thể bị nhiễm lao ngoài phổi như lao hạch bạch huyết, lao da, lao màng phổi, lao cơ xương khớp, lao tiết niệu, v.v.
+ Candida: Là một loại men, cộng sinh trên da và đường tiêu hóa, gây ra các bệnh phổ biến là C.albicans, C.glabrata, v.v. Ở bệnh nhân HIV, Candida có thể gây tưa miệng, nấm thực quản, nấm khí. phế quản, nấm trong phổi, nhiễm nấm,….
+ Viêm phổi Pneumocystis carinii (PCP): Pneumocystis carinii (P.jiroveci) là một loại nấm thuộc chi Pneumocystis, tồn tại trong không khí, lây nhiễm cho người khỏe mạnh nhưng không gây triệu chứng. Ở những bệnh nhân HIV có hệ miễn dịch yếu, đặc biệt là TCD4 < 200 tế bào/mm3, P.carinii gây tổn thương phổi và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong.
+ Nấm Penicillium marneffei: Một loại nấm dị hình, họ Penicillium, tồn tại dưới dạng nấm men hoặc nấm sợi tùy thuộc vào điều kiện môi trường. Ở bệnh nhân HIV, đặc biệt là khi TCD4 dưới 100 tế bào/mm3, nó có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan như tổn thương da, tổn thương hạch bạch huyết, gan, lá lách, nhiễm nấm, v.v.
+ Nấm Cryptococcus: 2 loài gây bệnh phổ biến là C.neoformans và C.gattii, nấm men, có viên nang. Nấm có thể được tìm thấy ở nhiều nơi như trong đất, phân chim, phổ biến nhất là phân chim bồ câu, các loài gỗ mục nát, v.v. Mọi người bị nhiễm bệnh do hít phải bào tử nấm trong môi trường. Nấm gây nhiễm trùng nhiều cơ quan như tổn thương phổi, tổn thương não – màng não, tổn thương da, v.v.
+ Cetomegalovirus (CMV): Thuộc họ Herpesviridae, gây bệnh ở người ở nhiều đối tượng như nhiễm trùng sơ sinh, phụ nữ mang thai và các đối tượng suy giảm miễn dịch. Virus có thể tồn tại trong nhiều năm trong tế bào chủ gây nhiễm trùng tiềm năng, khi điều kiện thuận lợi, virus kích hoạt lại gây bệnh ở nhiều cơ quan. Ở bệnh nhân HIV, virus CMV gây tổn thương mắt, tổn thương đường tiêu hóa, tổn thương hệ thần kinh trung ương, v.v.
Triệu chứng
Khi bị nhiễm HIV, giai đoạn đầu của bệnh nhân có thể không có triệu chứng cụ thể hoặc các triệu chứng không đặc hiệu: hội chứng cúm, sốt, bệnh bạch huyết, đau họng, phát ban, đau cơ, tiêu chảy, giảm cân, thiếu máu, v.v. Trong giai đoạn sau, nhiễm trùng cơ hội và ác tính xuất hiện, với các biểu hiện lâm sàng rõ ràng hơn.
+ Nhiễm Mycobarterium: Các triệu chứng như sốt kéo dài, sụt cân, ở trẻ em không tăng cân, đổ mồ hôi đêm và ho. Tùy thuộc vào cơ quan bị ảnh hưởng, có các triệu chứng khác như đờm ra máu, đau ngực, khó thở khi tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng ngoài tim, sưng hạch bạch huyết, đau cơ xương khớp, tiểu máu, v.v. Cần được sàng lọc bệnh lao trong tất cả các bệnh. Bệnh nhân nhiễm HIV.
+ Nhiễm nấm Candida: Nhiễm trùng khu trú ở da và niêm mạc hoặc lan rộng trong phổi, đường tiết niệu, nhiễm nấm,… Trong miệng, nấm tạo ra các mảng trắng, gây đau miệng, hạn chế ăn uống. Từ miệng có thể lan rộng gây tưa thực quản với nuốt đau, viêm phổi khi ho, sốt, tổn thương phổi trên X-quang ngực.
+ PCP: Về mặt lâm sàng, thường bán cấp trong 1-2 tuần với các triệu chứng hô hấp như ho, tăng khó thở, mệt mỏi, sốt thất thường, v.v. Hình ảnh X-quang là bình thường hoặc có sự xâm nhập mô. phổi kẽ. Bệnh tiến triển nhanh chóng, với nguy cơ tử vong cao ở trẻ nhỏ.
+ Nhiễm trùng P.marneffei: đa dạng lâm sàng từ tổn thương da, gan, lá lách, hạch bạch huyết,… đến nhiễm nấm. Bệnh khởi phát dần, sốt thất thường kéo dài, suy nhược, sụt cân, mệt mỏi, thiếu máu, tổn thương da sần sùi từ vài mm đến 2 cm, loét hoại tử trung tâm, rải rác khắp cơ thể, không đau, không ngứa, các triệu chứng cơ quan khác như ho kéo dài, sưng hạch bạch huyết, gan to, lá lách to, thiếu máu….
+ Nhiễm cryptococcus: gây nhiễm trùng ở da, phổi, màng não,… Sẩn da, không đau, lõm ở trung tâm. Tổn thương phổi có thể gây ho, đờm, đau ngực, khó thở, v.v. Viêm màng não sẽ gây đau đầu, buồn nôn, nôn, phù papilledema, dấu hiệu thần kinh tiêu điểm, lú lẫn, co giật, tăng áp lực nội sọ dẫn đến tử vong…
Nhiễm CMV: Ở bệnh nhân HIV, số lượng CD4 càng thấp, nguy cơ nhiễm trùng càng cao. CMV gây viêm võng mạc với mắt mờ, đau mắt, cảm giác bay, mất thị lực hoặc giảm, nội soi mắt sớm để hỗ trợ chẩn đoán. Biểu hiện đường tiêu hóa với các triệu chứng đau bụng, rối loạn tiêu hóa, viêm đại tràng, xuất huyết tiêu hóa, khi nội soi đường tiêu hóa có hình ảnh không điển hình như tổn thương niêm mạc, loét,… Tổn thương hệ thần kinh Hệ thần kinh trung ương như viêm não – viêm màng não, viêm dây thần kinh, hội chứng Guillain-Barré, viêm tủy ngang,… với các triệu chứng thần kinh đa dạng, CMV còn gây ra các bệnh cơ quan khác như viêm phổi, tổn thương tổn thương gan,…