Sốt rét là một căn bệnh gây ra bởi một loại ký sinh trùng gọi là Plasmodium, được truyền từ người sang người khi những người này bị muỗi đốt. Bệnh thường gặp ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Nguyên nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh: ký sinh trùng sốt rét thuộc chi Plasmodium (phylum Apicomplexa). Ở người, sốt rét được gây ra bởi năm loài: Plasmodium falciparum, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale, Plasmodium vivax và Plasmodium knowlesi.
Nguy hiểm nhất là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Hai loài còn lại (Plasmodium ovale, Plasmodium malariae) cũng gây bệnh nhưng ít gây tử vong hơn. Loài Plasmodium knowlesi, phổ biến ở Đông Nam Á, gây sốt rét ở khỉ nhưng cũng có thể gây bệnh nghiêm trọng ở người.
Ký sinh trùng sốt rét không tồn tại trong môi trường bên ngoài, chỉ trong máu của con người và trong cơ thể của muỗi truyền bệnh
Lây truyền: Muỗi Anopheles
Có khoảng 422 loài Anopheles trên thế giới, nhưng chỉ có khoảng 70 loài truyền bệnh sốt rét, trong đó khoảng 40 loài là muỗi vector chính. Tại Việt Nam, có 15 loài Anopheles truyền bệnh, trong đó có 3 loài chính truyền bệnh: Anopheles minimus, Anopheles dirus và Anopheles epiroticus.
Muỗi anopheles minimus phân bố ở các khu vực miền núi của đất nước ở độ cao dưới 1000 mét, phát triển mạnh vào đầu và cuối mùa mưa. Muỗi Dirus Anopheles phân bố ở vùng núi từ vĩ độ 20 độ bắc về phía nam, phát triển mạnh vào giữa mùa mưa. Muỗi Anopheles epiroticus phân bố ở vùng nước lợ ven biển miền Nam.
Sốt rét phát triển quanh năm, ở các tỉnh miền núi phía Bắc sốt rét cao nhất vào đầu và cuối mùa mưa. Ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, bệnh sốt rét rất phổ biến trong mùa mưa.
Sau khi muỗi bị nhiễm bệnh cắn và hút máu của một người bị nhiễm bệnh bằng tế bào giao hàng, các tế bào trò chơi nam và nữ sẽ hợp nhất trong dạ dày của muỗi thành noãn. Noãn đi qua thành dạ dày và tạo thành một cái kén ở bên ngoài dạ dày, nơi ký sinh trùng phát triển thành hàng ngàn ký sinh trùng trẻ được gọi là sporozoites. Khi kén vỡ, các sporozoites được giải phóng, di chuyển lên để tập trung trong tuyến nước bọt của muỗi. Ở nhiệt độ môi trường 20-300C, sau 10 ngày, ký sinh trùng hoàn thành chu kỳ phát triển tình dục trong cơ thể muỗi và có thể truyền bệnh cho đến khi muỗi chết. Ở nhiệt độ này, muỗi có thể sống trong khoảng 4 tuần.
Hồ chứa: con người là hồ chứa duy nhất của ký sinh trùng sốt rét
Thời gian truyền:
Thời gian từ khi sốt đầu tiên đến khi xuất hiện các tế bào giao hàng trong máu là 2-3 ngày đối với Plasmodium vivax, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale và 7-10 ngày đối với Plasmodium falciparum. Bệnh nhân cũng là một nguồn lây nhiễm khi có tế bào giao diện trong máu.
Bệnh nhân không được điều trị hoặc điều trị kém có thể là nguồn lây truyền muỗi trong tối đa 3 năm đối với bệnh sốt rét Plasmodium, 2 năm đối với Plasmodium vivax và 1 năm đối với Plasmodium falciparum.
Máu được lưu trữ bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét có thể truyền bệnh trong ít nhất 1 tháng.
Triệu chứng của sốt rét
Thời gian ủ bệnh từ khi bị muỗi đốt bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét đến khi bắt đầu biểu hiện lâm sàng phụ thuộc vào loại ký sinh trùng: Nhiễm Plasmodium falciparum từ 9-14 ngày, trung bình 12 ngày, nhiễm Plasmodium vivax từ 12 ngày. – 17 ngày, trung bình 14 ngày, nhiễm sốt rét Plasmodium từ 20 ngày đến nhiều tháng, nhiễm Plasmodium ovale từ 11 ngày đến 10 tháng. Sốt rét liên quan đến truyền máu có thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào lượng ký sinh trùng trong máu, nhưng nói chung thời gian ủ bệnh ngắn, dao động từ vài ngày.
Theo phân loại sốt rét của Tổ chức Y tế Thế giới, sốt rét ở Việt Nam được chia thành hai cấp độ lâm sàng:
Sốt rét thông thường hoặc không biến chứng
Sốt rét nặng hoặc sốt rét phức tạp
Các dấu hiệu của bệnh sốt rét khác nhau tùy theo hình thức lâm sàng
Các dấu hiệu phổ biến của bệnh sốt rét:
Sốt nguyên phát: sốt đầu tiên thường không điển hình, sốt cao liên tục trong vài ngày.
Sốt điển hình: sốt điển hình có ba giai đoạn:
Giai đoạn làm lạnh: ớn lạnh khắp cơ thể, môi nhợt nhạt, nổi da gà. Giai đoạn làm lạnh kéo dài khoảng 30 phút – 2 giờ.
Giai đoạn sốt nóng: ớn lạnh giảm, bệnh nhân cảm thấy ấm hơn, nhiệt độ cơ thể có thể đạt 400C – 410C, mặt đỏ, da khô nóng, mạch nhanh, thở nhanh, đau đầu, khát nước, có thể đau một chút ở vùng gan. lách. Giai đoạn sốt nóng kéo dài khoảng 1-3 giờ.
Giai đoạn đổ mồ hôi: nhiệt độ cơ thể giảm nhanh, đổ mồ hôi, khát nước, giảm đau đầu, mạch bình thường, bệnh nhân cảm thấy tốt.
Sốt cắt ngắn: sốt không có đợt, chỉ ớn lạnh, kéo dài khoảng 1-2 giờ. Dạng sốt này phổ biến ở những bệnh nhân đã bị nhiễm sốt rét trong nhiều năm.
Dạng ký sinh trùng lạnh (người khỏe mạnh mang nhiễm trùng): xét nghiệm máu có ký sinh trùng nhưng không sốt, vẫn sống và làm việc bình thường. Dạng này phổ biến ở những khu vực có bệnh sốt rét lưu hành.
Chu kỳ sốt thay đổi tùy theo loại ký sinh trùng.
Sốt do Plasmodium falciparum gây ra: sốt hàng ngày, tính chất sốt nặng, hoặc gây sốt rét nặng và tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Sốt do Plasmodium vivax: thường sốt mỗi ngày (mỗi ngày 1 sốt).
Sốt do sốt rét Plasmodium và Plasmodium ovale: sốt mỗi ngày hoặc sốt mỗi 3 ngày.
Dấu hiệu sốt rét ác tính:
Dạng não (chiếm 80-95% sốt rét ác tính):
Các dấu hiệu giả định nổi bật là rối loạn ý thức (thờ ơ hoặc khó chịu, mê sảng, nói ngọng), sốt cao liên tục, mất ngủ nghiêm trọng, đau đầu dữ dội và nôn mửa hoặc tiêu chảy.
Hội chứng tâm thần: hôn mê đột ngột hoặc dần dần, hôn mê sâu hơn. Động kinh co giật. Rối loạn cơ thắt, đồng tử giãn.
Các dấu hiệu khác: rối loạn hô hấp hoặc suy hô hấp do phù não. Giảm huyết áp do mất nước, hoặc tăng huyết áp do phù não. Nôn mửa và tiêu chảy.
Suy thận, oliguria hoặc tiểu niệu, nitơ urê máu cao, hemoglobin niệu do tan máu lớn có thể xảy ra.
Tỷ lệ tử vong do sốt rét não là từ 20 đến 50%.
Dạng hemoglobin:
Đây là một dạng nghiêm trọng do tan máu lớn, trụy tim mạch và suy thận.
Sốt nặng, nôn khô hoặc chảy dịch vàng, đau lưng. Vàng da, niêm mạc do tan máu. Tiểu máu trong nước tiểu, nước tiểu màu nâu đỏ sau đó chuyển sang màu cà phê hoặc màu nước đặc, lượng nước tiểu giảm dần, thậm chí dẫn đến tiểu máu. Thiếu máu và thiếu oxy cấp tính. Các tế bào hồng cầu và hemoglobin giảm mạnh.
Cơ thể lạnh
Cơ thể lạnh, huyết áp thấp, da nhợt nhạt, đổ mồ hôi, đau đầu.
Cơ thể phổi
Khó thở, thở nhanh, xyanosis, có thể nhổ bọt màu hồng. Đáy phổi có nhiều rales ẩm ướt, rales ngáy.
Cơ thể gan mật
Vàng da mắt vàng, buồn nôn và nôn. Phân màu vàng, nước tiểu màu vàng với rất nhiều muối mật. Hôn mê.
Cơ thể tiêu hóa
Đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy cấp, hạ thân nhiệt.
Sốt rét ở phụ nữ mang thai
Phụ nữ mang thai bị sốt rét dễ bị sốt rét nặng hoặc sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh non.
Sốt rét bẩm sinh (hiếm gặp)
Người mẹ mang thai bị nhiễm bệnh sốt rét và có tổn thương các tế bào nhau thai ngăn cách máu của người mẹ và máu của em bé. Bệnh xuất hiện ngay sau khi sinh, trẻ quấy khóc, sốt, vàng da, gan mật.
Sốt rét ở trẻ em
Trẻ em trên 6 tháng tuổi dễ bị sốt rét vì chúng không còn khả năng miễn dịch của mẹ và hemoglobin F. Trẻ em bị sốt rét thường bị sốt cao hoặc dao động, nôn mửa, tiêu chảy, trướng bụng, gan và các dấu hiệu màng não và co giật. Tỷ lệ tử vong cao.