Làm thế nào để nhận biết nhiễm giun sán?

Giun sán là một trong những bệnh nhiễm ký sinh trùng phổ biến nhất trên toàn thế giới. Bệnh lây truyền qua trứng có trong phân người, do đó làm ô nhiễm đất ở những khu vực có vệ sinh kém. Các loài chính gây bệnh ở người là giun tròn, giun tròn (Trichuris trichiura) và giun móc (Necator americanus và Ancylostoma duodenale).

Bệnh tật và triệu chứng

Tình trạng nhiễm giun sán có liên quan đến số lượng giun. Những người bị nhiễm giun với số lượng nhỏ (ít giun) thường không bị nhiễm trùng. Số lượng nhỏ giun không gây ra triệu chứng đáng kể. Khi giun tồn tại trong cơ thể với số lượng lớn, chúng gây ra nhiều triệu chứng bao gồm tiêu chảy, đau bụng, suy dinh dưỡng, suy nhược và giảm tăng trưởng thể chất. Một số lượng giun quá nhiều có thể gây tắc nghẽn đường ruột, cần phải phẫu thuật.

Các đường lây truyền của bệnh giun sán

Giun sán lây truyền qua tiếp xúc với đất, trứng giun và khi tiếp xúc với phân người bị nhiễm bệnh. Giun trưởng thành sống trong ruột người và đẻ hàng ngàn quả trứng mỗi ngày. Ở những khu vực có vệ sinh kém, những quả trứng này làm ô nhiễm đất. Điều này có thể xảy ra theo nhiều cách:

Trứng gắn vào rau không được nấu chín kỹ, rửa sạch hoặc gọt vỏ; qua miệng vào cơ thể và sau đó phát triển thành giun;

Trứng được lấy bằng miệng từ nước bị ô nhiễm;

Trứng được đưa vào thông qua chơi đất bị ô nhiễm và sau đó đưa tay vào miệng mà không cần rửa.

Ngoài ra, trứng giun móc nở trong đất, giải phóng ấu trùng trưởng thành thành một dạng có thể chủ động xâm nhập vào da. Mọi người bị nhiễm giun móc chủ yếu thông qua tiếp xúc với da, đặc biệt là đi chân trần trên đất bị ô nhiễm.

Bệnh giun sán không lây truyền trực tiếp từ người này sang người khác, hoặc do nhiễm trùng từ phân tươi, vì trứng phân cần khoảng 3 tuần để trưởng thành trong đất trước khi bị nhiễm trùng. Vì những con giun này không nhân lên trong vật chủ của con người, nên việc tái nhiễm chỉ xảy ra thông qua việc tiếp xúc với các giai đoạn lây nhiễm trong môi trường.

Tác hại của nhiễm giun sán

Giun sán gây suy dinh dưỡng ở những người bị nhiễm bệnh theo nhiều cách:

Giun ăn các mô của vật chủ, bao gồm cả máu, dẫn đến mất sắt và protein.

Giun móc cũng gây mất máu đường ruột mãn tính có thể dẫn đến thiếu máu.

Giun gây kém hấp thu chất dinh dưỡng. Ngoài ra, giun đũa cũng lưu trữ vitamin A trong ruột.

Một số giun sán trong đất cũng gây mất cảm giác ngon miệng và do đó, giảm lượng chất dinh dưỡng và thể lực. Đặc biệt, T. trichiura có thể gây tiêu chảy và kiết lỵ.

Thuốc theo khuyến cáo của WHO

Các loại thuốc được WHO khuyến cáo bao gồm albendazole (400 mg) và mebendazole (500 mg). Những loại thuốc này có ưu điểm là hiệu quả, rẻ tiền và dễ sử dụng bởi những người không phải là nhân viên y tế. Thuốc đã trải qua thử nghiệm an toàn rộng rãi và đã được sử dụng ở hàng triệu người với rất ít tác dụng phụ.

Cả albendazole và mebendazole đều được phân phối cho các Bộ Y tế quốc gia thông qua WHO để điều trị bệnh giun cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học.

Đối tượng cần kiểm soát nhiễm giun sán

Kiểm soát nhiễm giun sán là kiểm soát tỷ lệ mắc bệnh thông qua điều trị định kỳ cho những người có nguy cơ nhiễm trùng cao, đặc biệt là những người sống ở các vùng lưu hành dịch. Những người có nguy cơ là:

Trẻ em mẫu giáo.

Trẻ em trong độ tuổi đi học.

Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (bao gồm cả phụ nữ mang thai thứ hai và thứ ba ba tháng và phụ nữ cho con bú).

Những người làm việc trong một số ngành nghề có nguy cơ cao như người hái trà hoặc thợ mỏ.

Điều trị giun sán

WHO khuyến cáo điều trị bằng thuốc thường quy (tẩy giun) mà không cần chẩn đoán trước cho tất cả những người có nguy cơ sống ở các vùng lưu hành dịch. Điều trị nên được đưa ra mỗi năm một lần khi tỷ lệ mắc bệnh giun sán trong cộng đồng là hơn 20% và hai lần một năm khi tỷ lệ mắc bệnh giun sán trong cộng đồng là hơn 50%. Can thiệp này làm giảm tỷ lệ mắc bệnh bằng cách giảm số lượng giun. Ngoài ra, còn có một số biện pháp khác như:

Giáo dục sức khỏe và vệ sinh làm giảm sự lây truyền và tái nhiễm bằng cách khuyến khích các hành vi lành mạnh.

Cung cấp vệ sinh đầy đủ cũng rất quan trọng nhưng không phải lúc nào cũng có thể khi điều kiện kinh tế không theo kịp.

Điều trị định kỳ nhằm mục đích giảm mức độ nhiễm ký sinh trùng và bảo vệ những người có nguy cơ nhiễm giun. Tẩy giun có thể dễ dàng tích hợp với ngày sức khỏe trẻ em hoặc các chương trình bổ sung mầm non, hoặc tích hợp với các chương trình y tế học đường. Các trường học nên thúc đẩy giáo dục về các thực hành vệ sinh cá nhân như rửa tay và vệ sinh trường học.

Original

Eggs are taken by mouth from contaminated water;

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *