Bệnh viêm cột sống dính khớp: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị

Tổng quan về viêm cột sống dính khớp

Viêm cột sống dính khớp (AS) là một bệnh viêm mãn tính của cột sống, khớp sacroiliac và đôi khi bị tổn thương khớp ngoại vi (vai, khuỷu tay, cổ tay, ngón tay, đốt ngón tay và khớp). đầu gối, mắt cá chân, ngón chân, v.v.). Bệnh có thể gây xơ hóa và vôi hóa dây chằng và gân, dẫn đến giảm khả năng vận động của cột sống, mất tính linh hoạt cho bệnh nhân và đốt sống thẳng như “cây tre”.

Tỷ lệ mắc mới viêm cột sống dính khớp có mối tương quan rõ ràng với dương tính với kháng nguyên bạch cầu HLA-B27 ở người ở các quần thể cụ thể. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong các quần thể dương tính với HLA-B27, tỷ lệ mắc bệnh viêm cột sống dính khớp là 5–6%. Trong một cuộc điều tra quốc gia năm 2009 tại Hoa Kỳ, tỷ lệ dân số dương tính với HLA-B27 khác nhau giữa các cộng đồng dân tộc khác nhau, với lần lượt là 7,5%, 4,6% và 1,1%. phản ứng với người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Mexico và người da đen không phải gốc Tây Ban Nha. Trong tài liệu, nam giới được báo cáo là chiếm phần lớn các trường hợp viêm cột sống dính khớp với tổn thương trên X quang, trong khi tỷ lệ mắc mới ở nam và nữ là tương tự nhau trong viêm cột sống dính khớp. Các khớp không có tổn thương trên hình ảnh X quang (X-quang hoặc MRI. Một phân tích tổng hợp bao gồm tám nghiên cứu bao gồm 236 bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp với tổn thương X quang và 242 bệnh nhân không bị viêm cột sống dính khớp hình ảnh cho thấy nam giới chiếm 70,4% bệnh nhân bị tổn thương và 46,5% bệnh nhân không có tổn thương.

Viêm cột sống dính khớp thường được chẩn đoán ở những người dưới 40 tuổi và khoảng 80% bệnh nhân phát triển các triệu chứng đầu tiên khi họ dưới 30 tuổi. Hiếm khi, sự khởi phát của bệnh xảy ra sau tuổi 45 (5%). Nguy cơ tăng lên ở những người có tiền sử gia đình bị viêm cột sống dính khớp. (Có quan hệ huyết thống).

Nguyên nhân gây viêm cột sống dính khớp

một. Lý do

Viêm cột sống dính khớp là một bệnh tự miễn phát triển thông qua các tương tác phức tạp giữa các yếu tố di truyền và môi trường.

– Yếu tố di truyền

Các yếu tố di truyền đã được công nhận là quan trọng trong nguyên nhân của viêm cột sống dính khớp. Mối tương quan giữa viêm cột sống dính khớp và di truyền đã là một chủ đề lâu đời kể từ khi các yếu tố di truyền lần đầu tiên được xác định trong các gia đình vào năm 1961. Một trong những yếu tố di truyền quan trọng Đáng chú ý nhất, alen HLA-B27 thuộc phức hợp tương thích mô chính lớp I, được phát hiện vào năm 1973. Mặc dù cơ chế sinh lý bệnh không rõ ràng, HLA-B27 có liên quan đến tỷ lệ viêm cột sống dính khớp. trong các quần thể khác nhau trên khắp thế giới. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 90%–95% bệnh nhân viêm cột sống dính khớp dương tính với HLA-B27, trong khi 1%–2% dân số dương tính với HLA-B27 bị viêm cột sống dính khớp. . Con số này tăng lên 15% -20% đối với những người có người thân cấp độ một mắc bệnh. Ngoài mối liên quan với viêm cột sống dính khớp, bệnh nhân dương tính với HLA-B27 thường có bệnh khởi phát sớm với tần suất viêm màng bồ đào trước cấp tính cao hơn so với bệnh nhân âm tính với HLA-B27. HLA-B27 có mức độ đa hình cao. Cho đến nay, hơn 100 phân nhóm đã được xác định, 19 loại với tỷ lệ lưu hành khác nhau giữa các sắc tộc khác nhau, đặc biệt là ở những người gốc Đông Á và da trắng.

– Yếu tố miễn dịch và vi sinh

Nhiễm vi khuẩn hoạt động như một tác nhân kích hoạt cho hệ thống miễn dịch bẩm sinh của vật chủ và sự phát triển của viêm cột sống dính khớp. Chuột biến đổi gen HLA-B27 không phát triển các đặc điểm của viêm cột sống dính khớp trong môi trường không có vi trùng, điều này đã thay đổi khi vi khuẩn được đưa vào các mô hình cho thấy sự tương tác có thể có giữa HLA-B27 và hệ vi sinh vật. Klebsiella pneumoniae hoạt động như một mầm bệnh cơ hội trong ruột người bình thường, và các nghiên cứu đã gợi ý rằng nó có thể là một tác nhân làm nặng thêm quá trình tự miễn của viêm cột sống dính khớp. Một số nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng Klebsiella pneumoniae gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của viêm cột sống dính khớp thông qua tương tác với HLA-B27. Ngoài ra, nhiễm vi khuẩn đường ruột một phần là do sự thiếu hụt tương đối các thành phần miễn dịch, dẫn đến phản ứng miễn dịch với cường độ cao hơn và thời gian dài hơn.

– Các yếu tố khác

Ngay từ năm 1973, mối liên hệ giữa các yếu tố nội tiết và viêm cột sống dính khớp đã được đưa ra giả thuyết vì sự hiện diện của HLA-B27 và viêm cột sống dính khớp khác nhau tùy theo giới tính. Các quan sát sâu hơn cho thấy sự chiếm ưu thế của nam giới, với đỉnh điểm khởi phát khi còn trẻ và số lượng biểu hiện đầu tiên của bệnh sau khi mang thai, ngụ ý rằng hormone giới tính đóng một vai trò trong viêm cột sống dính khớp. đốt.

Ngoài ra, thiếu vitamin D cũng có thể liên quan đến sự phát triển của viêm cột sống dính khớp.

b. Sinh bệnh học

Cơ chế bệnh sinh chính xác của viêm cột sống dính khớp vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Sự phát triển của viêm cột sống dính khớp thông qua nhiều cơ chế và con đường bệnh lý. Các cơ chế này đi đôi với nhau và hiệp đồng dẫn đến tổn thương các cơ quan, chủ yếu là cột sống, khớp sacroiliac và khớp ngoại vi.

Dưới ảnh hưởng của vi sinh vật, ảnh hưởng của các gen mã hóa các yếu tố TNF và HLA-B27 gây ra sự kích hoạt hệ thống miễn dịch. Các tế bào lympho T và đại thực bào được kích hoạt tạo ra các cytokine gây viêm như IL-17, IL-23, TNF-α, v.v. Cytokine tấn công cột sống, dây chằng, khớp sacroiliac và màng hoạt dịch của khớp ngoại vi gây viêm và cứng cũng như xơ hóa dây chằng cột sống.

Triệu chứng viêm cột sống dính khớp

1. Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng thường gặp nhất của viêm cột sống dính khớp là đau thắt lưng và/hoặc đau cột sống cổ tử cung. Bệnh nhân thường bị đau âm ỉ. Ngoài ra, độ cứng buổi sáng và phạm vi chuyển động hạn chế được cải thiện khi tập thể dục và không thuyên giảm khi nghỉ ngơi cũng là những triệu chứng đặc trưng gợi ý viêm cột sống dính khớp. Ở bệnh nhân da trắng, các triệu chứng ở cột sống rất phổ biến. Trong khi đó, tại Việt Nam, bệnh nhân viêm cột sống dính khớp thường bị đau ở các khớp ngoại vi như vai, hông, đầu gối, mắt cá chân-cổ tay… viêm khớp sacroiliac.

Viêm gân là một triệu chứng phổ biến sau đau cột sống và khớp ngoại biên. Một số bệnh nhân có biểu hiện ban đầu của viêm gân tái phát không phải là đau cột sống hoặc khớp. Gân phổ biến nhất bị viêm là gân Achilles.

Viêm màng bồ đào cũng có thể được quan sát thấy ở những bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp. Bệnh nhân thường có biểu hiện mờ mắt hoặc thậm chí mất thị lực.

Một số biểu hiện hiếm gặp hơn ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp là hạn chế hô hấp do tổn thương phổi và giảm giãn nở ngực, tổn thương hệ thống tim mạch (động mạch chủ, v.v.)

2. Triệu chứng cận lâm sàng

một. Kiểm tra

– Xét nghiệm viêm CRP, lắng đọng hồng cầu. Hầu hết bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp có chỉ số viêm tăng.

– Trong một số trường hợp, thiếu máu, thiếu canxi và thiếu vitamin D có thể xảy ra.

– Xét nghiệm huyết thanh: RF, kháng ĐCSTQ, kháng thể kháng nhân ANA, kháng thể sợi kép kháng dsDNA âm tính.

Xét nghiệm di truyền: 90% những người bị viêm cột sống dính khớp có yếu tố dương tính HLA-B27.

b. Phân tích hình ảnh

-Tia X

X-quang là một phương pháp nhanh chóng, chi phí thấp và thuận tiện để đánh giá viêm cột sống dính khớp. Tuy nhiên, khi có tổn thương trên X-quang, bệnh đã ở giai đoạn muộn. Khi nghi ngờ viêm cột sống dính khớp, bác sĩ thường chỉ định cho bệnh nhân chụp X-quang sacroiliac (mặc dù bệnh nhân có thể không bị đau mông hoặc có dấu hiệu lâm sàng của viêm sacroiliitis) và chụp X quang cột sống. sống.

Viêm cột sống, thoái hóa đốt sống, đốt sống thẳng vuông như “đốt tre” là những hình ảnh điển hình của viêm cột sống dính khớp.

– Cộng hưởng từ

Cộng hưởng từ là một phương pháp rất nhạy cảm và cụ thể để đánh giá các chấn thương cột sống, mô mềm và khớp. Nhiều trường hợp chụp X-quang bình thường nhưng cộng hưởng từ phát hiện tổn thương. Tuy nhiên, cộng hưởng từ vẫn chưa phổ biến và chi phí chụp X-quang cao gấp nhiều lần so với X-quang nên X-quang vẫn là lựa chọn hàng đầu tại Việt Nam.

-Siêu âm

Siêu âm giúp đánh giá viêm hoạt dịch, dịch khớp, viêm gân. Phương pháp này thuận tiện, nhanh chóng, dễ thực hiện và chi phí thấp.

Biến chứng của viêm cột sống dính khớp

Bệnh nhân khởi phát sớm bệnh thường có một quá trình nghiêm trọng hơn, dễ bị biến chứng và khuyết tật. Hầu hết bệnh nhân vẫn hoạt động đầy đủ chức năng và có thể làm việc. Bệnh nhân mắc bệnh mạn tính, nặng có tỷ lệ tử vong cao hơn dân số nói chung, chủ yếu là do các biến chứng tim mạch.

Các biến chứng của viêm cột sống dính khớp bao gồm:

– Đau mãn tính và tàn tật

– Chấn thương động mạch chủ

– Xơ hóa phổi

– Hội chứng đuôi ngựa

– Rối loạn tâm lý

Phòng ngừa viêm cột sống dính khớp

Hiện tại không có phương pháp nào để ngăn ngừa bệnh. Bệnh nhân cần được khám sớm khi có triệu chứng bất thường.

Các biện pháp điều trị viêm cột sống dính khớp

một. Điều trị bằng thuốc

Mục tiêu của điều trị viêm cột sống dính khớp là cải thiện và duy trì sự linh hoạt của cột sống và duy trì tư thế bình thường, giảm các triệu chứng, giảm hạn chế chức năng và giảm các biến chứng.

– Thuốc chống viêm không steroid (NSAID)

NSAID cải thiện đau cột sống, đau khớp ngoại biên và chức năng trong viêm cột sống dính khớp. Không có loại NSAID duy nhất nào chiếm ưu thế tuyệt đối trong điều trị viêm cột sống dính khớp. Quyết định sử dụng NSAID nên được cá nhân hóa, có tính đến các yếu tố nguy cơ, đặc biệt là đối với bệnh đường tiêu hóa và tim mạch. Có thể cân nhắc dùng thuốc giảm đau, bao gồm paracetamol và opioid, khi NSAID chống chỉ định hoặc không dung nạp.

-Corticosteroid

Tiêm corticosteroid trong khớp hoặc quanh khớp để điều trị viêm sacroiliitis, viêm gân và viêm khớp ngoại biên đã được chứng minh là có hiệu quả trong các thử nghiệm nhỏ. Không nên sử dụng corticosteroid đường uống hoặc đường tĩnh mạch để điều trị bệnh, ngoại trừ trong một số trường hợp đặc biệt và theo lời khuyên của bác sĩ chuyên khoa cơ xương.

Thuốc chống thấp khớp điều chỉnh bệnh (DMARDs)

Sulfasalazine, Methotrexate là một loại thuốc cổ điển đã tồn tại trong nhiều năm và có một số nghiên cứu cho thấy nó có hiệu quả.

Bên cạnh các loại thuốc cổ điển, thuốc sinh học (thuốc nhắm mục tiêu) có hiệu quả cao hơn, bệnh nhân đáp ứng tốt hơn với thuốc. Những loại thuốc này có tác dụng tốt đối với viêm cột sống dính khớp như thuốc chống TNF-α, chất ức chế IL-17, chất ức chế IL-12/23, chất ức chế CD20, v.v. Tuy nhiên, do chi phí cao, thuốc rất đắt tiền. Điều này không phổ biến ở Việt Nam.

b. Vật lý trị liệu

Đây là một yếu tố quan trọng trong điều trị. Vật lý trị liệu và tập thể dục thích hợp sẽ giúp duy trì phạm vi chuyển động của khớp, giảm đau, giảm co cứng cơ bắp và hạn chế các biến chứng của bệnh.

c. Phẫu thuật

Một tỷ lệ lớn bệnh nhân bị viêm cột sống dính khớp bị viêm và tổn thương khớp hông dẫn đến rất nhiều hạn chế vận động. Khi đó, cần xem xét thay khớp háng cho bệnh nhân nếu không có cải thiện bằng các phương pháp y tế.

Ngoài ra, phẫu thuật còn giúp ổn định cột sống khi có nhiều dị tật hoặc chèn ép dây thần kinh, gãy đốt sống do loãng xương.

Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn hoặc https://nhathuochapu.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *