Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ động kinh chiếm 0,5 – 2% dân số. Ở các nước châu Á và châu Phi, bệnh động kinh phổ biến hơn ở các nước châu Âu và đã tăng lên. 4 đến 5 lần, trong đó động kinh ở trẻ em chiếm 0,35%.
1. Tổng quan về bệnh động kinh
Động kinh là một rối loạn chức năng từng đợt của hệ thống thần kinh trung ương do sự phóng điện đột ngột, quá mức và thoáng qua của các tế bào thần kinh trong não. Bệnh được xác định bởi các đặc điểm như: có mô hình tái phát; Cuộc tấn công diễn ra ngắn và đột ngột; gây rối loạn chức năng thần kinh trong các cuộc tấn công; Trên điện não đồ, sóng kịch phát đã được phát hiện.
Động kinh không loại trừ bất cứ ai và có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi hoặc giới tính. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh động kinh ở các độ tuổi khác nhau cũng rất khác nhau, tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Theo nghiên cứu trong lĩnh vực thần kinh nhi khoa tại Việt Nam, động kinh ở trẻ em là bệnh phổ biến và phức tạp nhất, bao gồm tất cả các loại co giật và co giật. Cụ thể, tỷ lệ động kinh ở trẻ em lên đến 50,5% xuất hiện trước 10 tuổi, 75% dưới 20 tuổi và có xu hướng tăng sau 60 tuổi.
Tỷ lệ mắc bệnh động kinh dao động từ 0,15% – 0,31% ở châu Á, 0,36%, Nhật Bản 0,17%; Thái Lan 0,72%. Tỷ lệ mắc bệnh tại Việt Nam là 0,5%-1%, trong đó động kinh ở trẻ em chiếm 60%.
2. Nguyên nhân gây động kinh ở trẻ em
Động kinh ở trẻ em có thể xuất hiện vì nhiều lý do:
Do di truyền: động kinh được di truyền theo các hướng khác nhau, chiếm ưu thế và lặn trên các hốc tự phát. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng bệnh động kinh sơ sinh lành tính gia đình có sự thay đổi trong nhiễm sắc thể 20.
Do các yếu tố xảy ra trước khi sinh: Mẹ bị chấn thương khi mang thai, ngộ độc thuốc ở mẹ và thai nhi (mẹ bị ngộ độc chì nặng khi mang thai) và hẹp hộp sọ thai nhi.
Do các yếu tố xảy ra trong khi sinh: Hạ đường huyết sau sinh nặng kèm theo suy hô hấp nặng; Sinh non dưới 37 tuần, cân nặng khi sinh dưới <2.500g, em bé bị ngạt khi sinh. Phụ nữ mang thai thực hiện các can thiệp sản khoa như sử dụng kẹp, chọc hút và sinh nở có kiểm soát. Trẻ bị vàng da não: vàng da sơ sinh sớm (ngày 1 – 3) kèm theo các dấu hiệu thần kinh như không chịu bú, tím tái, co giật, hôn mê.
Do các yếu tố xảy ra sau khi sinh: Nhiễm trùng thần kinh: viêm não, viêm màng não do vi khuẩn/virus, di chứng tổn thương não khi sinh: chảy máu não-màng não; chấn thương sọ não; Suy hô hấp nặng do các nguyên nhân khác nhau. Bệnh chuyển hóa tiến triển.
Không rõ nguyên nhân: Cũng có khá nhiều trường hợp động kinh nhưng không có nguyên nhân rõ ràng.
3. Dấu hiệu động kinh ở trẻ em
Biểu hiện lâm sàng của co giật động kinh thường đột ngột, tạm thời và đa dạng về triệu chứng, bao gồm rối loạn vận động như co cứng và/hoặc co giật, mất cử động tự nguyện, mất trương lực và tăng tiết dịch. tạo bọt, đánh trống ngực, đái dầm,… Hoặc rối loạn cảm giác (ngứa ran, cảm giác kim tiêm, mờ mắt, ù tai, chóng mặt, cảm giác như có dòng điện,…), lú lẫn rối loạn tâm thần (lo âu, sợ hãi, rối loạn trí nhớ, ảo giác, chậm phát triển trí tuệ, rối loạn hành vi…). Ngoài ra, các dấu hiệu cụ thể hơn có thể bao gồm:
3.1 Co giật toàn thân
Động kinh vắng mặt: là những cơn nhầm lẫn hoặc mất ý thức xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn (bất động, mắt nhìn xa và mơ màng, gián đoạn các hoạt động mà trẻ đang làm). Có thể không có ý thức với co giật (co giật nhẹ mí mắt và cơ miệng), với atonia tư thế (trẻ uốn cong đầu và cơ thể), với hypertonia (trẻ nghiêng đầu và lưng, mắt ngược). cầu), kèm theo đó là hiện tượng tự động lặp lại các cử động bình thường, kèm theo yếu tố sinh dưỡng khiến trẻ bị rối loạn vận mạch, thay đổi hô hấp, đồng tử giãn, đái dầm.
Co giật cơ tim: là những động tác giật cơ ngắn, giống như sét, đối xứng hai bên khiến trẻ ngã mà không kèm theo rối loạn ý thức.
Co giật: trẻ đột nhiên bị co giật đối xứng ở cả hai bên cơ thể với tốc độ chậm dần và thời gian khác nhau. Thường gặp khi sốt cao.
Co giật ưu trương: co thắt cơ không có myoclonus, kéo dài từ vài giây đến 1 phút, hoặc kèm theo rối loạn ý thức và rối loạn thực vật.
Tấn công atonic: mất hoặc giảm âm điệu. Nếu thời gian quá ngắn sẽ chỉ gây ra hiện tượng cúi người hoặc thả đầu về phía trước. Nếu thời gian lâu hơn, đứa trẻ sẽ ngã xuống đất trong trạng thái hoàn toàn khập khiễng.
Thuốc bổ – co giật co giật (co giật lớn): ban đầu trẻ mất ý thức, co thắt cơ sau đó giảm dần kèm theo rối loạn thần kinh tự trị (nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, đồng tử giãn, mặt đỏ), có thể cắn lưỡi. Sau đó, sẽ có co giật cơ đột ngột ở cả hai bên, có thể ngừng thở. Giai đoạn sau ictal kéo dài vài phút đến vài giờ (trẻ bất động, giảm sức mạnh cơ bắp, có ý thức bị che khuất, thư giãn hoàn toàn các cơ, có thể bị đái dầm, thở hổn hển, có thể tăng sản xuất chất nhầy và ý thức có thể cải thiện). dần dần cải thiện), đau đầu, đau nhức cơ thể.
3.2 Co giật một phần
Co giật cục bộ vận động đơn giản: Co giật ngón tay, ngón chân, một nửa khuôn mặt, một nửa cơ thể nhưng không mất ý thức. Hoặc đứa trẻ quay mắt, đầu, cơ thể và giơ tay lên như thể nó đang nhìn vào nắm đấm của mình. Hoặc trẻ bị mất phát âm và không thể nói được.
Co giật cục bộ đơn giản, cảm giác: Rối loạn somatosensory đối diện (ngứa ran, ghim và kim, đau giống như điện giật). Trẻ em có thể bị ảo giác (ánh sáng mờ, nhấp nháy ánh sáng, điểm sáng, hình ngôi sao) hoặc không nhìn thấy (nhược thị, mù). Trẻ em có cảm giác ù tai và huýt sáo. Trẻ có thể ngửi thấy mùi rất lạ và khó chịu. Trẻ em có thể cảm thấy chóng mặt, quay cuồng, muốn ngã hoặc lắc lư. Trẻ em có thể trải nghiệm một vị đắng hoặc chua.
Tấn công cục bộ đơn giản với các triệu chứng thực vật: Trẻ em có thể tăng tiết nước bọt, nuốt, nhai và buồn nôn. Hoặc trẻ cảm thấy đánh trống ngực, nóng, nhợt nhạt, nhợt nhạt, tắc nghẽn, đái dầm và khó thở.
Co giật một phần đơn giản với các triệu chứng tâm thần: Trẻ em mất khả năng nói và nói lắp. Trẻ em có thể cảm thấy như chúng đã thấy, đã sống, chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ sống, cảm thấy quen thuộc hay xa lạ, có những giấc mơ. Hoặc đứa trẻ cảm thấy khó chịu, sợ hãi, lo lắng, cảm thấy khủng khiếp, hoặc hiếm khi cảm thấy thoải mái, khát hoặc đói.
Co giật cục bộ phức tạp: Trẻ mất ý thức ngay từ đầu với cử động miệng tự động (nhai, nuốt, liếm, nắm lấy). Trẻ em có thể thực hiện các động tác tay, chà xát, cào, cầm đồ vật, cài cúc áo sơ mi, cởi cúc áo sơ mi, lục lọi trong túi, sắp xếp đồ vật và di chuyển đồ đạc. Hoặc nó có thể phát ra từ tượng thanh, tạo ra âm thanh, nói một từ hoặc một câu.
4. Biện pháp chẩn đoán
Để xác định chính xác bệnh động kinh ở trẻ em, bệnh nhân cần thực hiện các xét nghiệm sau:
Công thức máu, chức năng gan, lượng đường trong máu, chất điện giải, canxi trong máu
Điện não đồ có sóng co giật cụ thể.
Chụp cộng hưởng từ não (MRI).
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định động kinh ở trẻ em:
Dựa trên các cuộc tấn công định hướng, tấn công ngắn, lặp đi lặp lại nhiều lần.
Rối loạn chức năng thần kinh vận động và cảm giác.
Rối loạn ý thức trong các cuộc tấn công (trừ các cuộc tấn công một phần đơn giản).
Sau khi hồi phục nhanh chóng.
Điện não đồ cho thấy sóng kịch phát của bệnh động kinh.