Viêm gan E là tình trạng viêm gan do vi rút viêm gan E gây ra. Virus HEV là một loại virus RNA sợi đơn có 8 kiểu gen chính. Kiểu gen 1 và 2 chủ yếu gây bệnh ở người; kiểu gen 3 và 4 lây nhiễm cho một số động vật như lợn nhà, lợn rừng, hươu và nai và có thể truyền sang người; Kiểu gen 5 và 6 chủ yếu mới được phát hiện ở lợn rừng, kiểu gen 7 và 8 được tìm thấy ở cả người và lạc đà.
Virus viêm gan E là gì?
Virus viêm gan E là một loại virus herpes có bộ gen RNA thuộc họ Herpesviridae, chưa phát triển. Vi rút này có đường kính khoảng 27-34 nm, chứa một RNA sợi đơn với chiều dài xấp xỉ 7.500 bazơ. Bộ gen HEV chính là một chuỗi RNA dương tính chứa ba khung đọc mở (ORF). Trong đó, ORF lớn nhất sẽ chứa 1693 codon, mã hóa cho các protein không cấu trúc, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và sao chép HEV. Tiếp theo, ORF thứ hai sẽ bao gồm 660 codon, mã hóa cho các protein cấu trúc. Cuối cùng, ORF thứ ba bao gồm 123 codon mang tiềm năng mã hóa một protein cấu trúc, nhưng chức năng của khung đọc mở này vẫn chưa được xác định.
Virus viêm gan E lây lan như thế nào?
Viêm gan E chủ yếu mắc phải qua đường phân – miệng. Virus viêm gan E được đào thải qua phân của người hoặc động vật bị bệnh, sau đó qua nước uống, thức ăn bị nhiễm khuẩn không được nấu chín và lây nhiễm sang người bệnh khác.
Các con đường lây nhiễm có thể có khác, nhưng với một tỷ lệ nhỏ, bao gồm:
• Ăn thịt sống hoặc nấu chưa chín hoặc các sản phẩm thịt từ động vật bị nhiễm bệnh.
• Truyền máu hoặc các sản phẩm của máu từ một người bị nhiễm Virus HEV sang một người khác.
• Lây truyền dọc từ mẹ sang con khi mang thai
Những người dễ bị viêm gan E:
Độ tuổi thường mắc bệnh Virus HEV chủ yếu là thanh thiếu niên và thanh niên từ 15-44 tuổi và phụ nữ có thai.
Những người mới đến ở những khu vực lưu hành bệnh Virus HEV
Hậu quả nhiễm vi rút viêm gan E
Viêm gan E cấp
Hầu hết các trường hợp nhiễm vi rút Virus HEV đều không có triệu chứng và tự khỏi trong vòng 4-6 tuần.
Khoảng 7-30% các trường hợp còn lại là có triệu chứng, thời gian ủ bệnh từ 15-60 ngày, trung bình là 40 ngày sau khi tiếp xúc. Các triệu chứng bao gồm sốt, mệt mỏi, đau khớp, chán ăn, buồn nôn hoặc nôn. Một số ít bị vàng da và mắt, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu, ngứa da. Bệnh thường tự khỏi và khỏi trong vòng 2 đến 6 tuần.
Một số ít trường hợp có thể tiến triển thành suy gan cấp tính nặng, với tỷ lệ tử vong trong các đợt bùng phát từ 1-3%. Tuy nhiên, đối với phụ nữ mang thai, bệnh Virus HEV có thể gây bệnh nặng hơn với tỷ lệ tử vong cao hơn, ở nhóm bệnh nhân mang thai mắc bệnh Virus HEV trong 3 tháng cuối của thai kỳ. Thống kê cho thấy tỷ lệ tử vong có thể cao từ 10 đến 30%.
Viêm gan E có thể thúc đẩy suy gan tiến triển ở những người mắc bệnh gan mãn tính từ trước hoặc ở những người ghép tạng đang được điều trị ức chế miễn dịch, gây ra bệnh gan mất bù và tử vong. .
Giai đoạn lây truyền của bệnh nhân Virus HEV không được hiểu chính xác, nhưng đã có những nghiên cứu ghi nhận sự tồn tại của vi rút viêm gan E trong phân của bệnh nhân 1 tuần trước khi bắt đầu các triệu chứng và có thể có. Có thể tồn tại đến 30 ngày sau khi bắt đầu vàng da. Nhiễm Virus HEV mãn tính sẽ loại bỏ vi-rút miễn là chúng vẫn bị nhiễm.
Viêm gan E mãn tính
Cho đến nay, không có báo cáo nào về sự tiến triển của bệnh Virus HEV cấp tính đến mãn tính ở các nước phát triển, nơi kiểu gen 1 và 2 chiếm ưu thế. Tuy nhiên, sự gia tăng bệnh nhân bị nhiễm Virus HEV genotype 3 ở các nước phát triển có thể tiến triển thành viêm gan mãn tính. Những trường hợp mãn tính này chủ yếu được báo cáo ở những người ghép tạng rắn yêu cầu điều trị ức chế miễn dịch.
Các biểu hiện ngoại lai trong cài đặt HEV. sự nhiễm trùng
– Biến chứng thần kinh: Hội chứng Gullain-Barre, liệt dây thần kinh ngoại biên, teo cơ thần kinh, viêm màng não cấp, viêm tủy cắt ngang cấp tính.
– Giảm tiểu cầu, tan máu, giảm sản tủy
– Viêm tụy cấp liên quan đến HEV. sự nhiễm trùng
– Rối loạn miễn dịch liên quan đến nhiễm HEV: viêm mao mạch dị ứng, viêm cầu thận, hội chứng cryoglobulin niệu.
Chẩn đoán nhiễm vi rút viêm gan E
Các triệu chứng chung
Thời gian ủ bệnh sau khi bệnh nhân nhiễm virus viêm gan E từ 3 đến 8 tuần, trung bình là 40 ngày. Đặc biệt, các giai đoạn phát triển của bệnh trong quá trình lây nhiễm được cho là không rõ ràng.
Virus viêm gan E là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm gan lẻ tẻ và thành dịch. Đặc biệt, nhiễm HEV sẽ xuất hiện các triệu chứng phổ biến nhất ở lứa tuổi từ 15-40 tuổi. Theo thống kê, bệnh lây nhiễm HEV thường gặp nhất ở trẻ em và bệnh hầu như không có biểu hiện gì, hoặc chỉ rất nhẹ, thường không có triệu chứng vàng da nên rất khó chẩn đoán.
Các triệu chứng điển hình của bệnh do virus viêm gan E gây ra bao gồm:
• Chán ăn (không thèm ăn)
• Vàng da (vàng mắt, da, phân nhạt màu và nước tiểu sẫm màu)
• Gan to và đau
• Buồn nôn và nôn thường xuyên
• Sốt cao
Thông thường, các triệu chứng của bệnh viêm gan E sẽ khó phân biệt với giai đoạn cấp tính của các bệnh viêm gan virus khác, thường kéo dài từ 1 – 2 tuần. Trong một số trường hợp hiếm hoi, viêm gan E cấp tính sẽ dẫn đến viêm gan tối cấp (tức là suy gan cấp tính) và có thể tử vong. Điều tra cho thấy phụ nữ mang thai có tỷ lệ mắc bệnh viêm gan tối cấp cao hơn dân số chung, nguy cơ tai biến sản khoa cao và có thể tử vong do viêm gan. E. Đặc biệt, HEV có tỷ lệ tử vong khoảng 20% đối với phụ nữ mang thai trong 3 tháng giữa thai kỳ.
Các xét nghiệm để hỗ trợ chẩn đoán HEV sự nhiễm trùng
Do các triệu chứng điển hình của viêm gan E cấp tính tương tự như các triệu chứng viêm gan do virus khác nên không thể chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán phân biệt với bệnh viêm gan. E bị viêm gan siêu vi loại khác. Hiện nay, việc chẩn đoán nhiễm viêm gan E dựa trên việc phát hiện các kháng thể như IgG và IgM đặc hiệu cho các loại virus này trong máu của bệnh nhân.
Ngoài ra, một xét nghiệm khác, phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược, cũng có thể được sử dụng để phát hiện RNA của virus viêm gan E (HEV-RNA) trong máu / phân của bệnh nhân. Nhưng hiện nay việc xét nghiệm HEV-RNA chỉ được thực hiện tại các cơ sở xét nghiệm chuyên khoa.
Trên thế giới, bệnh Virus HEV có thể bùng phát và lây truyền qua nguồn nước bị ô nhiễm, vì vậy bệnh này rất phổ biến ở các nước đang phát triển, và bệnh có thể nặng hơn nếu phụ nữ đang mang thai.
Phương pháp điều trị viêm gan E
Hầu hết bệnh nhân viêm gan E không cần nhập viện vì virus viêm gan E thường tự giới hạn mà không cần điều trị. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân Virus HEV giai đoạn cuối, việc nhập viện để điều trị là rất cần thiết. Ngoài ra, những thai phụ có triệu chứng nhiễm HEV cũng cần được cân nhắc nhập viện để theo dõi tình trạng sức khỏe.
Hiện nay, không có loại thuốc nào có thể điều trị được bệnh Virus HEV cấp tính, hoặc thay đổi quá trình phát triển của bệnh viêm gan E cấp tính. Vì vậy, các bác sĩ chuyên khoa thường tư vấn các liệu pháp hỗ trợ. Người bệnh nên tuân theo một chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và chất lỏng, kết hợp với nghỉ ngơi, không uống rượu và nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng bất kỳ loại thuốc nào có thể gây tác dụng phụ. tổn thương gan, đặc biệt là acetaminophen.
Đối với bệnh viêm gan E mãn tính, nhiều tác giả đã cho rằng dùng ribavirin để điều trị bệnh này, mặc dù đây không phải là thuốc được chỉ định để điều trị bệnh Virus HEV. xóa HEV khỏi máu ở 2/3 số bệnh nhân bị Virus HEV. Ngoài ra, các phương pháp điều trị khác có thể bao gồm peginterferon hoặc kết hợp peginterferon và ribavirin. Người bệnh sẽ sử dụng theo đúng liều lượng chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, kết hợp với nghỉ ngơi và ăn uống điều độ.
Để phòng tránh nguy cơ lây nhiễm viêm gan E, cần tránh xa nguồn nước không đảm bảo, không ăn thức ăn chưa nấu chín hoặc rau củ quả chưa gọt vỏ.
Viêm gan E là một bệnh nhiễm trùng do vi rút tấn công gan và dẫn đến viêm gan. Thực hiện tốt vệ sinh, rửa tay thường xuyên là phương pháp phòng ngừa bệnh Virus HEV vô cùng hiệu quả.
Phòng ngừa bệnh viêm gan E
Chủ yếu là thực hành vệ sinh tốt và sự sẵn có của nước sạch, uống nước đun sôi hoặc nước đã khử trùng sẽ làm mất hoạt tính của HEV, và tránh thịt lợn sống và thịt nai có thể làm giảm nguy cơ nhiễm HEV loại 3.
Hiện nay, Trung Quốc đã sản xuất được vắc xin tái tổ hợp Hecolin, bước đầu cho thấy hiệu quả cao đối với bệnh viêm gan E ở Trung Quốc. Tuy nhiên, loại vắc xin này vẫn chưa được FDA hoặc nhiều quốc gia khác chấp thuận.