Siêu âm tim là kỹ thuật cơ bản và cung cấp nhiều thông tin có giá trị trong chẩn đoán các bệnh tim mạch. Thực hành lâm sàng thường sử dụng các loại siêu âm sau (chế độ siêu âm).
1.Siêu âm tim 2D (Còn gọi là siêu âm 2 mặt phẳng)
Hình ảnh siêu âm tim 2D thu được khi chùm sóng siêu âm đi qua một mặt cắt của tim, qua đó đánh giá vị trí và tư thế của tim, kích thước các buồng tim, độ dày và chuyển động của thành tim. , sự giãn nở và chức năng co bóp của cơ tim, các gốc mạch chính, hình thái và chuyển động của các van tim, các khuyết tật vách tim, khối u hoặc huyết khối trong tim, dịch màng ngoài tim. Các mặt cắt thường được sử dụng trong siêu âm 2D bao gồm: mặt cắt dọc trái xương ức, mặt cắt trục ngang xương ức trái, mặt cắt đỉnh, mặt cắt trên xương ức, mặt cắt dưới sườn.
Siêu âm tim 2D, 4 buồng nhìn từ đỉnh tim, cho thấy tâm nhĩ trái (LA), tâm thất trái (LV), tâm nhĩ phải (RA), tâm thất phải (RV), van 2 lá (MV), van 3 lá (TV) , van động mạch chủ (AV). Ngoài ra còn thấy vách liên nhĩ và vách liên thất.
2.Siêu âm tim kiểu TM (Còn gọi là chế độ M)
Do tim vận động liên tục theo chu kỳ tâm thu và tâm trương, các van tim cũng vậy nên khi quét chùm tia siêu âm qua một thành phần giải phẫu của tim với một tốc độ nhất định, ta sẽ thu được hình ảnh. của thành phần đó có dạng sóng. Với loại TM, do định vị được các thời điểm trong chu kỳ tim: tâm thu, cuối tâm thu, tâm trương, cuối tâm trương nên việc đo kích thước và chức năng co bóp của tim rất chính xác. Các lát cắt chính trong siêu âm chế độ M là trục dọc trái xương ức…, dựa trên hình ảnh 2D, trục ngang trái xương ức, di chuyển thanh dẫn hướng (con trỏ) đến vị trí cần khảo sát để thu được hình ảnh tim.
Siêu âm tim TM, lát cắt trục dọc xương ức trái, con trỏ sát đầu van 2 lá, đo đường
kính cuối tâm trương thất trái (LVIDd), đường kính cuối tâm thu thất trái (LVIDs), qua đó đo chức năng tâm thu thất trái (EF). Ngoài ra, kích thước tâm thất phải, độ dày thành tâm thất trái ở tâm trương (IVSd và LVPWd) và tâm thu (IVS và LVPW) cũng được đo.
3.Siêu âm tim 3D, 4D
Khác với siêu âm 2D, khi hình ảnh thu được trong không gian 2D, tức là trên 1 mặt phẳng (slice), siêu âm 3D đầu dò, 4D tinh thể áp điện trong ma trận, để thu được hình ảnh siêu âm trong không gian 3 chiều (hình khối), gọi là siêu âm 3D. Nếu có thêm chiều chuyển động (chiều thời gian) thì ta có siêu âm 4D.
Siêu âm tim 4D cho hình ảnh sống động, toàn diện, dễ hình dung hơn siêu âm 2D, đặc biệt quan trọng trong các bệnh lý: van động mạch chủ, van hai lá (đặc biệt trong kỹ thuật mitraclip: kẹp van). hở van 2 lá không cần mổ), thông liên nhĩ, đánh giá thất trái…
Thông liên nhĩ kích thước lớn trên siêu âm 4D (3 hình đen trắng nhỏ bên trái là hình siêu âm qua thực quản 2D, từ đó dựng hình 4D)
4.Siêu âm Doppler tim
Khi chùm siêu âm đi qua một vật thể chuyển động, hiệu ứng Doppler được tạo ra. Hiệu ứng Doppler là đại lượng phản ánh vận tốc của vật thể chuyển động được thu nhận, xử lý và thể hiện thông qua mã hóa âm thanh, dạng sóng hoặc màu sắc. Trong siêu âm tim Doppler, hiệu ứng Doppler phản ánh vận tốc của dòng máu và của cơ tim. Dòng máu chảy qua chỗ hẹp có vận tốc lớn thì tín hiệu âm thanh sẽ có âm lượng lớn và âm sắc cao, tín hiệu dạng sóng sẽ có biên độ lớn. Với Doppler màu, dòng máu được mã hóa thành màu đỏ khi đi về phía đầu dò và màu xanh lam khi ra xa đầu dò, từ đó phát hiện dòng máu bất thường trong tim. Tóm lại, siêu âm Doppler tim là một phương tiện rất hiệu quả trong việc đánh giá huyết động qua các van tim, phát hiện các dòng máu bất thường trong tim, tình trạng vận động của cơ tim.
Thông liên thất được phát hiện bằng siêu âm Doppler màu (VSD jet): dòng chảy từ thất trái (LV) qua vách liên thất đến thất phải (RV), đi đến đầu dò đặt bên phải nên có màu đỏ khảm.