Sự phát triển của bệnh Rubella được tính từ khi virus Rubella xâm nhập vào cơ thể cho đến khi bệnh được chữa khỏi. Theo đó, quá trình này được chia thành 3 giai đoạn:
Thời gian ủ bệnh
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus Rubella sẽ có thời gian ủ bệnh trung bình từ 16-18 ngày. Tại thời điểm này, bệnh nhân đã bị nhiễm virus Rubella nhưng chưa có bất kỳ triệu chứng nào.
Giai đoạn bệnh
Các triệu chứng điển hình có thể xảy ra ở giai đoạn này là sốt, phát ban và trong một số trường hợp bệnh bạch huyết hoặc viêm khớp.
Bệnh nhân sốt nhẹ khoảng 38 độ C và có các triệu chứng như đau họng, đau đầu, chảy nước mũi rõ ràng và viêm kết mạc. Những triệu chứng này có thể kéo dài từ 2 đến 3 ngày.
Phát ban là biểu hiện đặc trưng nhất của Rubella. Ở giai đoạn này, cơn sốt đã giảm. Phát ban bắt đầu xuất hiện trên đầu, xuống mặt và sau đó lan rộng khắp cơ thể trong vòng 24 giờ.
Thời gian thuyên giảm
Bệnh nhân ở giai đoạn này sẽ không sốt, phát ban sẽ biến mất nhanh chóng và không để lại dấu vết trên da, và các hạch bạch huyết cũng có thể lặn sau 1 tuần.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh
Nguy cơ mắc rubella có thể ở cả người lớn và trẻ em. Bên cạnh đó, một số đối tượng như những người chưa được tiêm vắc-xin Rubella, những người chưa bị nhiễm bệnh, những người đi du lịch đến khu vực có dịch Rubella, v.v. sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác.
Biến chứng rubella
Bên cạnh đau khớp hoặc viêm khớp có thể xảy ra ở 70% phụ nữ trưởng thành bị rubella, các biến chứng hiếm gặp khác có thể xảy ra bao gồm: purpura huyết khối, viêm não, v.v.
Nếu một người phụ nữ bị nhiễm virus rubella trong thời kỳ đầu mang thai, có 90% khả năng họ sẽ truyền virus cho thai nhi. Đây có thể là nguyên nhân gây ra hội chứng thai chết lưu hoặc rubella bẩm sinh. Trẻ sơ sinh mắc hội chứng này có thể bài tiết virus trong một năm hoặc lâu hơn.
Hội chứng Rubella bẩm sinh: Trẻ em mắc hội chứng rubella bẩm sinh có thể bị mất thính lực, dị tật mắt và tim và các khuyết tật khác cho cuộc sống, bao gồm: tự kỷ, tiểu đường và rối loạn chức năng tuyến giáp . Trong nhiều trường hợp, chi phí điều trị, phẫu thuật và chăm sóc cao là cần thiết.
Nguy cơ mắc hội chứng rubella bẩm sinh cao nhất ở các quốc gia nơi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không miễn dịch với căn bệnh này (thông qua tiêm chủng hoặc vì họ đã bị rubella). Trước khi có vắc-xin, có tới 4 trong số 1000 trẻ sơ sinh được sinh ra với hội chứng rubella bẩm sinh.
Thống kê cũng cho thấy phụ nữ bị rubella càng sớm trong thai kỳ, nguy cơ truyền bệnh cho thai nhi càng cao. Theo đó:
Nếu một phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh trong tháng đầu tiên của thai kỳ, tỷ lệ nhiễm trùng cho thai nhi là 81% – 90%.
Nếu một phụ nữ mang thai mắc bệnh trong tháng thứ hai của thai kỳ, tỷ lệ nhiễm trùng cho thai nhi là 60% – 70%.
Nếu một phụ nữ mang thai mắc bệnh trong tháng thứ ba của thai kỳ, tỷ lệ nhiễm trùng cho thai nhi là 35% – 50%.
Nếu một phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh ở tuần thứ 13-16 của thai kỳ, tỷ lệ nhiễm trùng cho thai nhi là 17%.
Nếu một phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh ở tuần thai thứ 17-20, tỷ lệ nhiễm trùng cho thai nhi là 5%.