Tại Việt Nam, ca cấy máy tạo nhịp tim đầu tiên được thực hiện vào năm 1973, tuy nhiên do điều kiện kinh tế nên mãi đến những năm 1990 kỹ thuật cấy máy tạo tim mới phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, các trung tâm có khả năng cấy và lập trình máy tạo nhịp đã tăng lên đáng kể với số lượng bệnh nhân được cấy máy tăng dần qua các năm.
1.Máy tạo nhịp tim là gì?
Máy tạo nhịp tim là sử dụng thiết bị tạo nhịp tim tạo ra xung điện 1 chiều, tuần hoàn, thông qua dây điện cực để kích thích trực tiếp cơ tim, làm cho cơ tim co bóp theo chu kỳ của máy. Máy tạo tim là một thiết bị điện tử rất đặc biệt với 2 khả năng:
Phân tích các hoạt động chức năng của hệ thống điện của tim.
Khi cần thiết, máy sẽ tạo xung hỗ trợ để đảm bảo hoạt động của tim (ví dụ khi xung quá chậm, máy sẽ tạo xung bổ sung để đảm bảo tim hoạt động đúng tần số). nhu cầu của cơ thể).
Gần đây người ta bổ sung thêm một số chỉ định mới của máy tạo nhịp tim như: dùng trong điều trị suy tim, dùng trong bệnh cơ tim phì đại có tắc nghẽn đường ra thất trái, dùng trong một số bệnh nhịp nhanh. ..
Lịch sử của máy tạo nhịp tim
Năm 1889, Mc. William công bố trên Tạp chí Y học Anh về kết quả thí nghiệm dùng xung điện kích thích tim người đã ngừng đập, kết quả làm tâm thất co bóp theo tần số xung điện khoảng 60-70. lần/phút.
Năm 1932, nhà sinh lý học người Mỹ Albert Hyman công bố phát minh về máy tạo nhịp và đưa ra khái niệm “Artificial Pacemaker: máy tạo tim nhân tạo” vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Năm 1952, Paul Zoll lần đầu tiên sử dụng thành công xung điện qua hai điện cực gắn vào hai kim, sau đó đưa vào lồng ngực hai bệnh nhân bị ngừng tim, khiến tim đập trở lại theo nhịp của xung điện đó. .
Năm 1956, Winson Greatbatch (Mỹ) đã thử nghiệm thành công cấy máy nhịp tim vào cơ thể sống.
Năm 1958, Ake Sening (Thụy Điển) là người đầu tiên trên thế giới cấy thành công máy tạo nhịp tim vào cơ thể người.
Với những hiểu biết mới về điện sinh lý và sinh lý học, những tiến bộ vượt bậc của kỹ thuật y sinh và điện tử, từ những thế hệ máy tạo nhịp đầu tiên rất đơn giản và nặng nề (300 – 400g), sau hơn 50 năm phát triển, đến nay người ta đã cho ra đời nhiều thế hệ máy tạo nhịp khác nhau. máy móc hiện đại, trọng lượng máy rất nhỏ gọn (chỉ từ 20 đến 30g) nhưng chức năng rất đa dạng: Máy tạo nhịp 3 buồng điều trị suy tim. Máy tạo tim, máy khử rung tim tự động cấy ghép (phòng ngừa đột tử do rung thất) và tuổi thọ của máy tạo nhịp tim dài hơn (8–10 năm).
2.Máy tạo nhịp được chỉ định trong những trường hợp nào?
Chỉ định cấy máy tạo nhịp thường gặp nhất là bệnh nhân có nhịp quá chậm, gây ra các triệu chứng như ngất, chóng mặt,… Nhịp tim chậm do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do: Tắc nghẽn đường dẫn truyền nhĩ độ 2 và độ 3, yếu nút xoang, rung nhĩ. với nhịp tim nhanh và nhịp tim chậm xen kẽ (nếu điều trị nhịp tim nhanh sẽ làm cho nhịp tim chậm nặng hơn và nguy hiểm đến tính mạng). Ngoài ra còn nhiều chỉ định mở rộng khác nhưng các chỉ định này cũng chỉ giới hạn trong một số trường hợp cụ thể.
3.Nguyên lý hoạt động của máy tạo nhịp tim
Nguyên lý hoạt động của máy rất phức tạp, nhưng có thể hiểu đơn giản: tim co bóp được là do trung khu tạo nhịp phát ra các xung điện, các xung điện này được truyền qua hệ thống dẫn truyền đến các tế bào. cơ tim, kích thích cơ tim co bóp.
Máy nhịp tim có khả năng phát hiện các hoạt động tạo nhịp này của tim, nếu hoạt động này của tim không được đảm bảo (tạo nhịp quá chậm, tim không bơm đủ máu lên não gây ra triệu chứng thiếu máu não), trong Trong trường hợp này, máy tạo tim sẽ bổ sung các xung động kích thích, đảm bảo tim co bóp đúng tần số theo chương trình đã lập sẵn trên máy. Ngược lại, nếu tim hoạt động bình thường, cỗ máy sẽ không phát ra xung động để tim tự duy trì hoạt động.
4.Làm thế nào để cấy máy tạo nhịp tim trong cơ thể?
Cấy máy tạo nhịp bao gồm 2 phần:
Đầu tiên là đặt điện cực vào các buồng tim, có nhiều loại máy nhịp tim khác nhau, có 1 – 4 điện cực đặt vào 1 – 4 buồng tim khác nhau. Khi đã xác định được vị trí, điện cực sẽ được cố định vào thành tim.
Bước tiếp theo là đặt máy tạo nhịp tim, thường là ngay bên dưới và giữa xương đòn bên phải. Bác sĩ sẽ rạch một đường vừa đủ để đưa máy nhịp tim vào. Sau khi đặt máy nhịp tim, các điện cực được lắp vào máy và máy tạo nhịp tim đã được đặt sẵn.
5.Bệnh nhân mang máy tạo nhịp cần chú ý
Theo dõi máy: Trước khi xuất viện, bác sĩ sẽ kiểm tra lại máy và điều chỉnh cho phù hợp với từng bệnh nhân. Sau đó, nếu không có gì bất thường, bệnh nhân được tái khám định kỳ sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc ngay khi có dấu hiệu bất thường.
Đi lại và sinh hoạt bình thường sau khi xuất viện. Một tháng sau bệnh nhân tái khám nếu máy móc tốt có thể trở lại làm việc bình thường, tuy nhiên phải tránh những công việc nặng nhọc, vận động nhiều. Người đã từng chơi thể thao, sau khi đặt máy nhịp tim cần ngừng thi đấu thể thao, chỉ chơi những môn thể thao nhẹ nhàng, mang tính chất giải trí.
Nếu bệnh nhân đang lái xe, nếu thắt dây an toàn, tránh để dây vắt chéo qua máy.
Sử dụng điện thoại di động: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự tương tác giữa máy nhịp tim và điện thoại di động. Vì vậy, người đeo máy trợ tim tuyệt đối không được nghe điện thoại bằng tai cùng bên với máy trợ tim (thường là tai phải), tai đối diện có thể nghe được ở khoảng cách từ điện thoại di động đến máy. Tạo nhịp càng xa càng tốt, sử dụng càng ngắn càng tốt, đặc biệt khi bệnh nhân cảm thấy “có vấn đề” khi sử dụng điện thoại di động.
Đặc biệt chú ý: Không chụp ảnh hoặc lại gần máy cộng hưởng từ hạt nhân (nguy hiểm đến tính mạng), chú ý khi đi qua hàng rào an ninh có máy từ tính (thường ở sân bay) phải khai báo máy trợ tim, nếu tự ý đi qua có thể có ảnh hưởng nghiêm trọng, từ trường đi qua có nguy cơ làm gián đoạn hoạt động của máy. Không đặt hoặc để các thiết bị có từ trường (nam châm) gần máy điều hòa nhịp tim.