Bệnh sán máng – Một trong những ký sinh trùng bị lãng quên

Một thực tế đang diễn ra là một số bệnh ký sinh trùng hiếm gặp, với một vài trường hợp được báo cáo trong nhiều năm, hiện đã xuất hiện trở lại và được phát hiện với tần suất nhiều hơn trong đó. Có một ký sinh trùng sán máng – một tác nhân thầm lặng gây ra hậu quả đáng kể cho con người.

1. Bệnh sán máng là gì?

Bệnh sán máng là một bệnh nhiễm ký sinh trùng gây ra bởi sán thuộc chi Schistosoma. Có 3 loài có khả năng lây nhiễm cao sang người: S.haematobium, S.japonicum, S.mansoni; hai loài ít gây bệnh khác là S.mekongi và S.in-tercalatum. Ngoài ra, có một số loài khác ký sinh ở động vật có vú gây viêm da nấm ở người.

2. Nguồn lây nhiễm và phương thức lây truyền bệnh

2.1. Vòng đời sinh học của schistosome

Schistosomes trưởng thành ký sinh trùng mạc treo của hệ thống tĩnh mạch của con người, nơi chúng giao phối và sản xuất trứng.

Trứng được thụ tinh được giải phóng ra môi trường thông qua phân, nước tiểu hoặc đi tĩnh mạch, nơi nó vẫn còn trong các mô gây viêm cục bộ.

Những quả trứng được thả vào môi trường nước ngọt sẽ nở, giải phóng ấu trùng lông sống tự do sau đó ký sinh trên ốc sên.

Ở ốc sên, giun lông trải qua quá trình sinh sản vô tính giải phóng ấu trùng đuôi xuống nước.

Ấu trùng đuôi là một dạng nhiễm trùng cho con người, bơi trong nước sẽ xâm nhập vào người qua da, hoặc bằng miệng đến các mao mạch bạch huyết thông qua tuần hoàn đường ruột và sau đó cư trú trong hệ thống tĩnh mạch cửa.

Sau khoảng 2 tháng, nó sẽ phát triển thành sán trưởng thành, tiếp tục chu kỳ phát triển và gây bệnh.

Tuổi thọ trung bình của chúng thường là 3-5 năm, với nhiều cá thể sống tới 30 năm.

2.2. Phương thức truyền

Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể con người trong các trường hợp sau:

Trong các hoạt động nông nghiệp và thủy sản, trồng trọt, trồng trọt, hoạt động vui chơi, du lịch sinh thái, v.v., có khả năng tiếp xúc với nước bị ô nhiễm, mang mầm bệnh.

Những người bơi hoặc câu cá trong nước bị ô nhiễm.

Mọi người uống nước không hợp vệ sinh có chứa ấu trùng.

Ngoài ra, một số loài Schistosoma động vật có vú có thể gây viêm da nấm ở người thông qua tiếp xúc.

3. Các trường hợp cần xét nghiệm bệnh sán máng

Những người sinh sống và làm việc trong các lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, trồng trọt, trồng trọt, hoạt động vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, bơi lội, câu cá, tắm biển, rửa xe,… nước bị ô nhiễm, mang mầm bệnh. Trong sự hiện diện của các dấu hiệu và triệu chứng sau đây:

– Biểu hiện ngoài da: Ngứa nhẹ, phồng rộp, nốt sần, xuất huyết nhỏ, phát ban thành cụm, sau một thời gian có thể có các biểu hiện: đau tứ chi, đau đầu, ớn lạnh, nôn ra mồ hôi,…

– Triệu chứng đường sinh dục:

Viêm bàng quang, viêm cầu thận, bệnh nhân tiểu máu, kèm theo khó tiểu, đi tiểu đau, xơ hóa bàng quang.

Đau bộ phận sinh dục, phụ nữ bị tổn thương đường sinh dục, chảy máu âm đạo. Nam giới bị viêm niệu đạo, tuyến tiền liệt, tổn thương tinh hoàn, vô sinh.

– Triệu chứng tiêu hóa: Đau bụng không rõ, tiêu chảy, táo bón, tắc ruột. Bệnh nhân khám có gan to và xơ hóa, lách to và đau, cổ trướng.

– Tổn thương hệ thần kinh trung ương: u hạt ở não, tủy sống, viêm tủy với liệt mềm.

– Tăng áp lực tĩnh mạch phổi.

– Tăng áp lực cổng thông tin với các triệu chứng nôn ra máu và lách to.

– Ho, dị ứng, bạch cầu ái toan rất cao.

– Trẻ có dấu hiệu thiếu máu, suy dinh dưỡng, khả năng nhận thức, học tập kém ở những khu vực đã ghi nhận ca bệnh.

4. Xét nghiệm chẩn đoán bệnh sán máng

4.1. Chẩn đoán trực tiếp

* Xét nghiệm bệnh sán máng người lớn: Kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp, chọc hút tá tràng tươi, sinh thiết mô có thể tìm thấy sán máng người lớn nhưng khả năng phát hiện chưa cao.

Hình dạng của bệnh sán máng trưởng thành: Sán có 2 mút. Con đực cuộn lại như ống lá dài 1-2cm, rộng 1mm, bụng teo thành rãnh lõm trong đó con cái ở tư thế giao phối, dài và mỏng hơn. Con cái dài 2cm và rộng 0,5mm.

* Xét nghiệm trứng sán

– Xét nghiệm trứng sán là phương pháp có giá trị chẩn đoán cao khi phát hiện hình ảnh trứng sán trong mẫu bệnh phẩm.

– Xét nghiệm phết nước tiểu 24h để tìm trứng của S. haematobium: Nước tiểu được để lắng tự nhiên hoặc ly tâm lấy cặn để tìm trứng tươi.

– Xét nghiệm phân trực tiếp để phát hiện trứng của S.mansoni và S.japonicum: Nếu số lượng trứng ít có thể bỏ sót.

Trong nhiều trường hợp, số lượng trứng sán dây ít, do đó phết tế bào trực tiếp không đủ tin cậy, rất dễ bỏ sót, vì vậy cần thực hiện một số phương pháp tập trung trứng để tăng giá trị chẩn đoán:

Phương pháp Kato-Katz: Được sử dụng để phát hiện và đếm số lượng trứng trong phân và nước tiểu.

Phương pháp Formol-ether: Sử dụng formol để bảo quản mẫu phân và ether để loại bỏ dư lượng, dầu và chất béo trong phân. Sau đó, mẫu được xử lý được ly tâm, trầm tích được đưa xuống đáy để được kiểm tra tươi để tìm trứng ký sinh.

Phương pháp lắng trọng lực: Mẫu phân được hòa tan với nước pha với glycerin và để lắng tự nhiên, thu gom cặn tươi để tìm trứng sán.

Quét mới chọc hút tá tràng để tìm trứng: Nhiều loại trứng có thể được phát hiện trong khi kiểm tra phân không được phát hiện.

Sinh thiết trực tràng, phết tế bào tươi cho trứng: Có thể phân biệt tất cả các loại trứng. Đặc điểm hình thái của trứng bệnh sán máng: Trứng có hình bầu dục, không có nắp, có gai

Trứng của S. haematobium: 50 x 150 nm, có gai ở một đầu.

Trứng của S.mansoni: Kích thước 60 x 150nm, có gai ở bên cạnh cơ thể.

Trứng của S.japonicum: Kích thước 60 x 80 nm, hình cầu, bên trong có thể có ấu trùng lông.

4.2. Chẩn đoán gián tiếp

– Xét nghiệm da: Nguyên tắc xét nghiệm là hiện tượng dị ứng da sau khi tiêm vào da một lượng kháng nguyên chiết xuất từ sán trưởng thành. Xét nghiệm này thường được sử dụng trong sàng lọc.

– Xét nghiệm miễn dịch enzyme (ELISA): rất có giá trị trong sàng lọc và theo dõi điều trị. Kháng thể IgM thường xuất hiện trong vòng 4 tuần đầu tiên của bệnh và biến mất nhanh chóng. Kháng thể IgG xuất hiện 4 – 5 tuần sau khi ấu trùng xâm nhập vào cơ thể và tồn tại lâu hơn, đôi khi lên đến nhiều năm. Độ nhạy lên đến 98%, độ đặc hiệu trên 85%.

– Xét nghiệm sinh học phân tử: để phát hiện DNA bệnh sán máng. Phương pháp này có độ đặc hiệu và độ chính xác cao, nhưng ít phổ biến hơn, chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu.

4.3. Một số kỹ thuật kết hợp chẩn đoán bệnh sán máng

– Xét nghiệm công thức máu: trong trường hợp bệnh sán máng, tăng bạch cầu ái toan thường tăng, có thể tăng 20 – 60%.

– Xét nghiệm IgE: thường tăng trong các trường hợp có biểu hiện dị ứng.

– Xét nghiệm bảng điều khiển dị ứng để loại trừ một số yếu tố kích hoạt khác ngoài nhiễm ký sinh trùng.

– Sử dụng phương pháp soi bàng quang và trực tràng: có thể xem hình ảnh sán trưởng thành, nghi ngờ tổn thương do sán để xét nghiệm.

– Một số kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, CT-scanner hay X-quang còn giúp tầm soát toàn diện bệnh nhân cũng như phát hiện các biến chứng giúp điều trị bệnh nhân hiệu quả hơn.

5. Mẫu nào được sử dụng để chẩn đoán bệnh?

Các mẫu bệnh phẩm có thể được sử dụng trong các xét nghiệm chẩn đoán có thể là phân, nước tiểu, máu, dịch hút tá tràng, mẫu sinh thiết bàng quang và trực tràng.

– Mẫu nước tiểu: Thu thập toàn bộ nước tiểu trong 24 giờ, trước khi thu thập, yêu cầu bệnh nhân tập thể dục (đi lên xuống cầu thang vài lần trước khi lấy), nước tiểu phải được bảo quản trong chai sạch có nắp đậy kín. Vận chuyển đến phòng thí nghiệm càng sớm càng tốt và không quá 4 giờ.

– Mẫu phân: Có thể bảo quản bằng formol để giữ nguyên hình dạng của ký sinh trùng. Phân được thu thập ở những vị trí bất thường như máu, chất nhầy, chất lỏng, bọt, nếu phân được đúc, nó có thể được thu thập ở bất kỳ vị trí nào, nhưng tốt nhất là đỉnh của khuôn vì thường có nhiều trứng. sán lá. Trong trường hợp nghi ngờ nhiễm sán trưởng thành, toàn bộ lượng phân thu thập được có thể được thu thập.

Các mẫu phân được bảo quản bằng formol có thể được giữ trong 8-10 giờ, các mẫu không có chất bảo quản nên được gửi đến phòng thí nghiệm ngay lập tức và không quá 4 giờ.

– Mẫu dịch hút tá tràng: Thường được bác sĩ thực hiện khi có nghi ngờ nhiễm sán dây nhưng các xét nghiệm khác không tìm thấy.

– Sinh thiết bàng quang và trực tràng: Trong quá trình nội soi, nếu có nghi ngờ, bác sĩ sẽ tiến hành sinh thiết mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm.

– Mẫu máu: Lấy 2ml máu không chống đông, huyết thanh riêng. Bảo quản ở nhiệt độ 2 – 8°C trong vài ngày, -20°C trong 3 – 6 tháng.

6. Cần lưu ý gì trước khi xét nghiệm bệnh sán máng?

Để có được thông tin về các yếu tố liên quan đến bệnh nhân trước khi làm xét nghiệm, cần khai thác các vấn đề sau:

– Đặc điểm nơi cư trú, nơi từng sinh sống do bệnh khu trú theo vùng.

– Nghề nghiệp của bệnh nhân.

– Tiền sử bệnh nhân: Bạn đã bao giờ bị nhiễm bệnh sán máng hay chưa?

– Dấu hiệu lâm sàng của người bệnh: Lý do đi khám

– Phác đồ điều trị trước đây: Để chẩn đoán và điều trị tốt hơn

– Kết quả xét nghiệm máu được thực hiện: Công thức máu, IgE, Dị ứng,…

– Tình trạng sức khỏe của người bệnh: Bệnh mạn tính hay suy giảm miễn dịch?

– Do đó, tester cần sự hợp tác của bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng, không chỉ để lựa chọn kỹ thuật xét nghiệm phù hợp mà còn phải phân tích kết quả xét nghiệm một cách hiệu quả nhất.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *