Ung thư biểu mô niệu quản

Ung thư biểu mô niệu quản

Ung thư biểu mô niệu quản là gì hãy cùng thongtinbenh tìm hiểu và giải đáp thắc mắc này trong bài viết của chúng tôi nhé

Triệu chứng và dấu hiệu ung thư biểu mô niệu quản 

Đa số bệnh nhân trải qua hiện tượng máu xuất hiện trong nước tiểu; có khả năng gặp khó khăn khi đi tiểu và tiểu nhiều lần, đặc biệt nếu bàng quang bị ảnh hưởng. Đau quặn thắt có thể xuất hiện đồng thời với tình trạng tắc nghẽn (xem bảng: Bệnh thận tắc nghẽn). Tuy nhiên, hiện tượng ứ nước thận do u bể thận là hiếm gặp.

Chuẩn đoán bệnh 

Siêu âm hoặc CT với sử dụng chất cản quang,
Phân tích tế bào học hoặc mô học
Trong trường hợp bệnh nhân có các triệu chứng đường tiểu không có lý giải, thường tiến hành siêu âm hoặc CT với sử dụng chất cản quang. Nếu không thể loại trừ chẩn đoán, quá trình phân tích tế bào học hoặc mô học được tiến hành để đặt ra xác định. Soi niệu quản được thực hiện khi cần phải thực hiện sinh thiết đường niệu trên hoặc khi kết quả phân tích tế bào nước tiểu dương tính nhưng không tìm thấy nguồn gốc cụ thể của các tế bào ác tính. Các phương pháp hình ảnh như CT bụng và khung chậu cũng như chụp X quang ngực được thực hiện để đánh giá mức độ lan rộng và kiểm tra di căn của khối u.

Tiên lượng ung thư biểu mô niệu quản

Tiên lượng của bệnh phụ thuộc vào mức độ xâm lấn vào hoặc qua thành biểu mô đường niệu, điều này là khá khó xác định. Khả năng chữa khỏi cao hơn 90% đối với bệnh nhân có khối u nằm ở bề mặt, nhưng giảm xuống chỉ từ 10 đến 15% đối với những người có khối u xâm lấn sâu. Nếu khối u đã xâm lấn qua thành hoặc di căn xa, thì khả năng chữa khỏi là không có.

Ung thư biểu mô niệu quản
Ung thư biểu mô niệu quản

Điều trị ung thư biểu mô niệu quản 

Phương pháp loại bỏ hoặc cắt đi
Giám sát nội soi sau điều trị bàng quang
Đối với phương pháp điều trị thông thường, quá trình phẫu thuật cắt thận triệt để thường bao gồm việc loại bỏ cổ bàng quang và vét hạch vùng. Quá trình cắt niệu quản bán phần có hoặc không có chỉ định cấy ghép niệu quản lại được xem xét cẩn thận ở một số bệnh nhân được chọn lọc (ví dụ, bệnh nhân có khối u niệu quản ở đầu xa, giảm chức năng thận hoặc thận đơn độc). Sau phẫu thuật, hóa trị liệu bằng gemcitabine và mitomycin-C được khuyến nghị để giảm nguy cơ tái phát trong bàng quang. Hóa trị liệu bổ sung trước phẫu thuật được đề xuất cho các tổn thương độ cao và giai đoạn cao, vì các phương pháp điều trị khác có thể làm giảm chức năng thận và thường ngăn cản việc sử dụng hóa trị liệu sau phẫu thuật. Các loại thuốc ức chế PD-1 và/hoặc PD-L1 hiện đang được sử dụng cho ung thư biểu mô đường tiết niệu trên và có thể là một phương pháp thay thế hữu ích ở những bệnh nhân không đủ điều kiện để sử dụng cisplatin (thường được sử dụng làm hóa trị liệu bổ trợ).
Các trường hợp u bể thận được đánh giá đúng giai đoạn và quan sát đầy đủ hình ảnh của bể thận hoặc niệu quản độ thấp để xem xét việc sử dụng cắt đốt laser. Đôi khi, một số loại thuốc như mitomycin C hoặc BCG có thể có tác dụng.
Soi bàng quang giám sát định kỳ được thực hiện bởi vì ung thư bể thận và ung thư niệu quản thường có xu hướng tái phát trong bàng quang. Nếu tái phát được phát hiện ở giai đoạn sớm, có thể điều trị bằng phương pháp đốt bằng tia điện, cắt bỏ qua niệu đạo, hoặc bơm hóa chất vào trong bàng quang. Quản lý di căn cũng tương tự như trong trường hợp ung thư bàng quang di căn.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *