Nhiễm trùng tiết niệu rất dễ bị và rất dễ tái phát, bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và giới tính. Nhiễm trùng tiết niệu tái phát không chỉ gây khó chịu do các triệu chứng viêm, kích thích bàng quang mà còn có nguy cơ biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của bệnh nhân.
1. Nhiễm trùng tiết niệu là gì?
Hệ thống tiết niệu của con người bao gồm niệu đạo, bàng quang, tuyến tiền liệt (ở nam giới), niệu quản và hai quả thận. Nhiễm trùng tiết niệu là một hoặc nhiều bệnh nhiễm trùng của hệ thống tiết niệu, được đặc trưng bởi sự xuất hiện của vi khuẩn trong nước tiểu hoặc các triệu chứng biểu hiện sự xâm nhập của vi khuẩn trong các cơ quan. Về mặt giải phẫu, nhiễm trùng tiết niệu có thể được chia thành hai nhóm:
Nhiễm trùng đường tiết niệu ở trên: là nhiễm trùng từ thận đến miệng niệu quản trong thành bàng quang, vị trí nhiễm trùng phổ biến là nhu mô thận và thành của pyelon cấp. Bệnh nhân có các triệu chứng điển hình như sốt cao, ớn lạnh, đau thắt lưng một bên, đau, đi tiểu, nước tiểu, nước tiểu đục. Toàn bộ triệu chứng là buồn nôn, nôn, mệt mỏi, mỏng, mất ngủ.
Nhiễm trùng đường tiết niệu dưới: là tình trạng bàng quang, niệu đạo và bộ phận sinh dục của nam giới, tinh hoàn, tuyến tiền liệt. Các dạng nhiễm trùng đường tiết niệu dưới là: viêm niệu đạo, viêm bàng quang, viêm tuyến tiền liệt, viêm tinh hoàn cấp tính, viêm mào tinh hoàn… Nếu có viêm bàng quang cấp tính, bệnh nhân thường không bị sốt. . Tuy nhiên, nếu viêm tuyến tiền liệt, viêm tinh hoàn, thường cao 39 – 40 độ. Các triệu chứng của bàng quang kích thích như đi tiểu, đi tiểu, nước tiểu đục và vết loét dưới. Nếu viêm tinh hoàn hoặc viêm tinh hoàn, có triệu chứng đau bìu nghiêm trọng.
Nhiễm trùng đường tiết niệu trên và nhiễm trùng tiết niệu dưới có thể xảy ra đồng thời hoặc độc lập với nhau. Hầu hết các trường hợp đều có triệu chứng nhưng một số ít trường hợp không có triệu chứng, nhiễm trùng đường tiết niệu được phát hiện khi xét nghiệm nước tiểu với vi khuẩn.
E. Coli là nguyên nhân của hơn 75% các trường hợp nhiễm trùng đường tiết niệu. Các vi khuẩn phổ biến khác là: streptococcus nhóm D, staphylococcus, Leptospira, Salmonela, vi khuẩn kỵ khí Mycoplasma, Corynebacteria,… Vi khuẩn xâm nhập vào cơ quan tiết niệu thông qua 4 con đường chính là:
Vi khuẩn di chuyển ngược dòng, từ niệu đạo, đến bàng quang sau đó lên đến thận. Đây là con đường xâm nhập chính của vi khuẩn.
Nhiễm vi khuẩn do đường huyết, vi khuẩn hoặc xâm nhập bởi lượng đường trong máu là vi khuẩn, thường gây tổn thương và áp xe trong vỏ thận.
Vi khuẩn xâm lấn đường bạch huyết: Nhiễm trùng trong đại tràng thông qua hệ thống bạch huyết có thể đến đường tiết niệu. Tuy nhiên, nhiễm trùng này là hiếm trong thực tế.
Vi khuẩn từ các cơ quan lân cận như áp xe ở ruột thừa, viêm đại tràng,… có thể gây nhiễm trùng bàng quang.
2. Phòng ngừa nhiễm trùng tiết niệu tái phát
Nhiễm trùng đường tiết niệu rất phổ biến, bệnh có thể xảy ra ở mọi giới tính, mọi lứa tuổi.
Ở phụ nữ, do cấu trúc niệu đạo ngắn, nếu không vệ sinh đúng cách trong thời kỳ kinh nguyệt, sau khi giao hợp hoặc sau khi đi đại tiện, vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào bàng quang gây nhiễm trùng tiết niệu. Thời gian. Nguyên nhân gây nhiễm trùng đường tiết niệu khác ở phụ nữ là do bất thường phẫu thuật, lỗ nước tiểu hẹp, túi thừa niệu đạo, v.v. tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập.
Các nguyên nhân gây nhiễm trùng đường tiết niệu ở nam giới là: quan hệ tình dục không an toàn, nguyên nhân cản trở, làm tắc nghẽn dẫn lưu nước tiểu như niệu quản, sỏi, cứng bàng quang, hẹp niệu đạo,… Ở những người đàn ông cao tuổi, nguyên nhân gây nhiễm trùng đường tiết niệu là chứng phì đại tuyến tiền liệt phổ biến nhất gây ra niệu đạo dẫn đến ứ đọng nước tiểu.
Nhiễm trùng đường tiết niệu ở trẻ em thường là do dị tật đường tiết niệu bẩm sinh.
Nhiễm trùng tiết niệu, nếu không được điều trị hoặc điều trị không hiệu quả, có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm. Nếu nhiễm trùng đường tiết niệu thấp như viêm bàng quang, viêm niệu đạo không được điều trị kịp thời, vi khuẩn có thể di chuyển ngược dòng gây viêm thận, viêm bể thận cấp tính. Nhiễm vi khuẩn ở thận gây tổn thương thận, áp xe thận, suy thận. Đặc biệt, tất cả các bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu đều có triệu chứng sốt như viêm tuyến tiền liệt, viêm bể thận,… Vi khuẩn từ vị trí nhiễm trùng có thể xâm nhập vào máu, gây nguy cơ sốc vi khuẩn, đe dọa đe dọa tính mạng.
Để ngăn ngừa các biến chứng và ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát, một số điểm sau:
Khi có triệu chứng nhiễm trùng tiết niệu, cần chủ động điều trị, thực hiện theo hướng dẫn của bác sĩ, sử dụng thuốc theo quy định, tuyệt đối không mua thuốc để điều trị, không tự ý ngừng thuốc. Khi bác sĩ chưa tham khảo ý kiến, không sử dụng đơn thuốc của các phương pháp điều trị trước đó khi sử dụng khi nhiễm trùng tiết niệu tái phát.
Ở phụ nữ, cần đặc biệt chú ý đến việc giữ sạch sẽ trước và sau khi quan hệ tình dục. Sau khi đi đại tiện, đi tiểu cần chú ý vệ sinh từ trước ra sau, không thực hiện theo hướng ngược lại vì vi khuẩn từ hậu môn có thể xâm nhập vào niệu quản. Chọn loại dung dịch nữ thích hợp, sử dụng hàng ngày để ngăn ngừa nhiễm trùng.
Đối với bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu tái phát hơn 2 lần trong 6 tháng, bác sĩ có thể kê toa thuốc kháng sinh dự phòng liều thấp trong nhiều tháng.
Điều trị triệt để viêm tuyến tiền liệt, đây là nguyên nhân chính gây nhiễm trùng tiết niệu tái phát ở nam giới.
Uống nhiều nước, khoảng 2 lít mỗi ngày. Không nhịn ăn, đi tiểu sẽ khiến nước tiểu nổi bật, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập.
Bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu nhiều lần, nếu các biện pháp trên không cải thiện, nên đến thận – chuyên gia tiết niệu để kiểm tra cơ thể bị dị tật thận tiết niệu hoặc tiết niệu hoặc sỏi tiết niệu hoặc sỏi tiết niệu hoặc Không.